Nghị quyết 70-NQ/TW mở chương mới cho ngành năng lượng

Nghị quyết 70-NQ/TW mở chương mới cho ngành năng lượng
17 giờ trướcBài gốc
TS. Trần Văn Khải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội khẳng định trong cuộc trao đổi với phóng viên Báo Công Thương.
Mở ra một chương mới cho ngành năng lượng
- Tổng Bí thư Tô Lâm vừa ký ban hành Nghị quyết số 70-NQ/TW về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Xin ông cho biết, việc ban hành Nghị quyết ở thời điểm này có ý nghĩa như thế nào?
TS. Trần Văn Khải: Việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 70-NQ/TW vào tháng 8/2025 mang ý nghĩa hết sức kịp thời và chiến lược đối với ngành năng lượng Việt Nam. Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết 55-NQ/TW, tuy ngành năng lượng đã tăng trưởng ổn định và cơ bản đảm bảo an ninh năng lượng, nhưng nhiều mục tiêu đặt ra khó đạt được, tiến độ một số dự án điện còn chậm, hạ tầng chưa đồng bộ, phụ thuộc nhập khẩu năng lượng dẫn đến nguy cơ thiếu điện.
TS. Trần Văn Khải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Công nghệ và Môi trường của Quốc hội
Chính tại thời điểm này, Việt Nam đang đứng trước yêu cầu phát triển mới: Nền kinh tế phấn đấu tăng trưởng cao (8-10%/năm), cùng với các cam kết quốc tế về giảm phát thải và chuyển đổi năng lượng. Do đó, Nghị quyết 70-NQ/TW ra đời như một “cú hích” chính sách mạnh mẽ nhằm khắc phục những hạn chế tồn đọng của Nghị quyết 55-NQ/TW và tạo khuôn khổ mới để ngành năng lượng “đi trước một bước” phục vụ phát triển đất nước.
Nghị quyết 70-NQ/TW mang tầm nhìn xa đến 2045 và đặt ra mục tiêu rõ ràng đến 2030, coi đảm bảo vững chắc an ninh năng lượng quốc gia là nền tảng cho hai mục tiêu chiến lược 100 năm (2030 và 2045) của đất nước.
Lần đầu tiên, một nghị quyết chuyên đề về năng lượng đặt ra hệ thống chỉ tiêu cụ thể: Tổng công suất nguồn điện 183-236 GW vào năm 2030, tỷ lệ năng lượng tái tạo khoảng 25-30% tổng cung năng lượng sơ cấp, dự trữ xăng dầu 90 ngày nhập ròng...
Những con số này thể hiện quyết tâm chính trị cao nhằm đáp ứng đầy đủ, ổn định nguồn cung năng lượng chất lượng cao cho nền kinh tế đang tăng tốc, đồng thời gắn với mục tiêu giảm phát thải và bảo vệ môi trường. Nghị quyết được ký bởi Tổng Bí thư thể hiện thông điệp mạnh mẽ từ cấp lãnh đạo cao nhất: Năng lượng là vấn đề sống còn, phải ưu tiên hàng đầu cho tăng trưởng và an ninh quốc gia.
Ban hành Nghị quyết 70-NQ/TW lúc này còn là bước đi “mở ra một chương mới” cho ngành năng lượng, kế thừa định hướng của Nghị quyết 55 nhưng tiến thêm một bước về tính cụ thể và quyết liệt.
Nếu Nghị quyết 55-NQ/TW được ví như kim chỉ nam định hướng chiến lược, thì Nghị quyết 70-NQ/TW bổ sung những giải pháp sát thực tiễn, giải quyết trực diện các vấn đề cấp bách mà ngành năng lượng đang đối mặt (ví dụ: cải cách giá điện, thúc đẩy dự án trọng điểm bị chậm, phát triển điện hạt nhân, năng lượng tái tạo…).
Việc Bộ Công Thương tổ chức hội nghị triển khai Nghị quyết 70-NQ/TW sau khi Nghị quyết vừa được công bố cho thấy sự vào cuộc nhanh chóng của hệ thống chính trị, quyết tâm biến chủ trương thành hành động cụ thể. Nghị quyết cũng yêu cầu huy động sức mạnh của cả hệ thống, từ Trung ương đến địa phương, từ doanh nghiệp nhà nước đến tư nhân, cùng chung tay đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia trong tình hình mới.
Tóm lại, Nghị quyết 70-NQ/TW ra đời đúng thời điểm mang ý nghĩa định hướng chiến lược và thực tiễn sâu sắc. Nó khẳng định mạnh mẽ cam kết của Đảng và Nhà nước về ưu tiên phát triển năng lượng bền vững, an toàn; tạo niềm tin cho nhà đầu tư và người dân về một tương lai ngành năng lượng minh bạch, hiệu quả.
Đồng thời, đây là cơ sở chính trị để hệ thống chính sách, quy hoạch (như Quy hoạch điện VIII) được triển khai đồng bộ, đưa Việt Nam vượt qua thách thức hiện tại, tiến tới mục tiêu đến 2030 không thiếu điện và đến 2045 ngành năng lượng đạt trình độ tiên tiến, góp phần hiện thực hóa khát vọng Việt Nam hùng cường. Nghị quyết 70-NQ/TW chính là lời hiệu triệu và là kim chỉ nam mới để toàn ngành tăng tốc, “về đích” an ninh năng lượng vững chắc trong thập kỷ tới.
“Chìa khóa vàng” để phát triển nhanh và bền vững
- Nghị quyết 70-NQ/TW nêu rõ quan điểm: Ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng. Ông nhận định gì về vai trò của khoa học và công nghệ trong phát triển ngành năng lượng?
TS. Trần Văn Khải: Khoa học và công nghệ chính là “chìa khóa vàng” để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng Việt Nam trong giai đoạn mới.
Năng lượng là vấn đề sống còn, phải ưu tiên hàng đầu cho tăng trưởng và an ninh quốc gia
Nghị quyết 70-NQ/TW đã đề ra quan điểm rất quan trọng: “Ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng; từng bước làm chủ công nghệ hiện đại, công nghệ năng lượng nguyên tử, tiến tới tự chủ sản xuất được phần lớn các thiết bị năng lượng phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu”. Điều này nhấn mạnh rằng muốn đi nhanh và đi xa, ngành năng lượng phải dựa vào bệ phóng khoa học và công nghệ.
Trước hết, khoa học công nghệ là động lực để giải quyết các điểm nghẽn kỹ thuật hiện tại. Thực tế, công nghệ trong một số lĩnh vực năng lượng của ta còn lạc hậu, tỷ lệ nội địa hóa thiết bị quan trọng chưa cao. Nhiều máy móc cho các dự án điện gió, điện mặt trời phải nhập khẩu.
Do vậy, việc làm chủ và chuyển giao công nghệ tiên tiến sẽ giúp Việt Nam dần tự chủ chế tạo phần lớn thiết bị năng lượng, đúng như mục tiêu đến năm 2030 “nhiều vật tư, thiết bị chính trong các phân ngành năng lượng được sản xuất trong nước”. Khi đó, chúng ta không chỉ giảm phụ thuộc nhập khẩu, tiết kiệm ngoại tệ mà còn có thể hướng tới xuất khẩu công nghệ, thiết bị năng lượng "Made in Vietnam".
Thứ hai, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo là nền tảng để chuyển dịch cơ cấu năng lượng theo hướng bền vững. Muốn ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo (điện gió, mặt trời…), chúng ta phải có lưới điện thông minh và công nghệ lưu trữ năng lượng hiệu quả.
Nghị quyết 70-NQ/TW đặt mục tiêu hệ thống điện Việt Nam đạt độ tin cậy thuộc top 3 ASEAN vào năm 2030. Điều này đòi hỏi áp dụng mạnh mẽ chuyển đổi số, tự động hóa trong vận hành lưới điện, ứng dụng các giải pháp như IoT, AI để quản lý tải và nguồn điện một cách tối ưu.
Chẳng hạn, công nghệ điều khiển thông minh sẽ cho phép tích hợp tỷ lệ cao năng lượng tái tạo mà vẫn đảm bảo ổn định (tiêu chí N-1, N-2 đối với hệ thống điện quan trọng). Bên cạnh đó, nghiên cứu phát triển công nghệ lưu trữ (pin battery, thủy điện tích năng) là quyết định để dự trữ điện năng lượng tái tạo, san bằng phụ tải – đây cũng là nhiệm vụ trọng tâm mà Nghị quyết 70-NQ/TW giao (đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng công nghệ lưu trữ năng lượng).
Thứ ba, vai trò của khoa học và công nghệ thể hiện rõ trong việc chuẩn bị cho những nguồn năng lượng mới có tính đột phá. Điện hạt nhân là ví dụ điển hình - để “phát triển điện hạt nhân” thành công, chúng ta cần làm chủ công nghệ năng lượng nguyên tử và đội ngũ chuyên gia hạt nhân trình độ cao.
Nghị quyết 70-NQ/TW đã đặt mục tiêu đào tạo tối thiểu 25.000 - 35.000 kỹ sư, chuyên gia năng lượng, đặc biệt ưu tiên lĩnh vực năng lượng hạt nhân. Đây là bước chuẩn bị nguồn nhân lực khoa học và công nghệ rất bài bản để khi điều kiện chín muồi, Việt Nam có thể tái khởi động các dự án nhà máy điện hạt nhân một cách an toàn, tự tin.
Tương tự, những lĩnh vực như hydro xanh, điện gió ngoài khơi công suất lớn, thu giữ và lưu trữ carbon (CCS)… đều cần đến nghiên cứu khoa học và tiếp thu công nghệ mới từ thế giới.
Đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số còn mở ra cơ hội nâng cao hiệu quả và năng suất năng lượng. Ví dụ, các giải pháp số hóa giúp EVN và ngành điện tối ưu vận hành, giảm tổn thất điện năng trên lưới, hay các ứng dụng công nghệ trong quản lý nhu cầu (DSM) sẽ giúp tiết kiệm 8-10% tổng tiêu thụ năng lượng vào năm 2030 như mục tiêu đề ra.
Công nghệ cũng thúc đẩy các mô hình kinh doanh mới trong năng lượng: Cho phép triển khai thị trường điện cạnh tranh minh bạch, giao dịch mua bán điện trực tiếp (DPPA) qua nền tảng số, hay phát triển các hệ thống phát điện phân tán (ví dụ điện mặt trời mái nhà thông minh) hòa lưới.
Tóm lại, khoa học công nghệ chính là “đòn bẩy” để ngành năng lượng bứt phá. Nghị quyết 70-NQ/TW đã tạo hành lang để phát huy vai trò này, từ việc yêu cầu chi tối thiểu 2% GDP ngành năng lượng cho nghiên cứu phát triển (R&D), lập các trung tâm đổi mới sáng tạo, thu hút 60-80 dự án chuyển giao công nghệ cao, cho đến xây dựng cơ chế liên kết viện trường - doanh nghiệp, thu hút chuyên gia quốc tế về làm việc.
Với sự đầu tư đúng mức vào khoa học và công nghệ, Việt Nam có thể rút ngắn khoảng cách với các nước tiên tiến, tự tin làm chủ nguồn năng lượng mới và sạch.
Có thể khẳng định, khoa học và công nghệ sẽ quyết định sự thành bại của mục tiêu phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nước ta - là “chìa khóa” để giải bài toán an ninh năng lượng gắn với tăng trưởng xanh trong những thập niên tới.
Khẩn trương triển khai đồng bộ nhiều giải pháp
- Theo ông, để cụ thể hóa mục tiêu đến năm 2030 đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia vững chắc, với nguồn cung đầy đủ, ổn định, chất lượng cao theo tinh thần Nghị quyết 70-NQ/TW, vấn đề cấp bách hiện nay cần triển khai những giải pháp gì?
TS. Trần Văn Khải: Mục tiêu đến năm 2030 của Nghị quyết 70-NQ/TW là đảm bảo “vững chắc an ninh năng lượng quốc gia; cung cấp năng lượng đầy đủ, ổn định, chất lượng cao, giảm phát thải cho phát triển kinh tế - xã hội”.
Cần đáp ứng đầy đủ, ổn định nguồn cung năng lượng chất lượng cao cho nền kinh tế
Để hiện thực hóa mục tiêu đầy tham vọng này trong vòng chưa đầy một thập kỷ, chúng ta phải khẩn trương triển khai đồng bộ nhiều giải pháp cấp bách ngay từ bây giờ.
Một là, đẩy nhanh phát triển nguồn cung và hạ tầng điện: Đẩy nhanh triển khai các dự án điện để đáp ứng nhu cầu tăng cao. Phấn đấu đến năm 2030 đạt khoảng 200 GW công suất, 600 tỷ kWh điện, ưu tiên dự án lớn để bảo đảm đủ điện.
Hai là, cải cách thể chế, chính sách năng lượng: Hoàn thiện thể chế, chính sách cho thị trường cạnh tranh. Áp dụng giá điện hai thành phần và cho phép mua bán điện trực tiếp (DPPA); xóa bỏ bao cấp chéo, áp dụng giá thị trường để thu hút đầu tư tư nhân.
Ba là, đa dạng hóa nguồn cung, tăng cường an ninh nhiên liệu: Nâng tỷ trọng năng lượng tái tạo lên 25-30% tổng cung năm 2030, giảm dần điện than và phát triển điện hạt nhân. Tăng cường an ninh nhiên liệu qua khai thác trong nước, đa dạng hóa nhập khẩu và duy trì dự trữ dầu 90 ngày.
Bốn là, thúc đẩy tiết kiệm năng lượng và quản lý nhu cầu: Đẩy mạnh sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả để đến năm 2030 giảm 8-10% tiêu thụ năng lượng và 15-35% phát thải khí nhà kính.
Năm là, phát triển nguồn nhân lực và khoa học công nghệ: Dành tối thiểu 2% GDP ngành cho R&D, thúc đẩy chuyển đổi số. Đào tạo ít nhất 25.000-35.000 kỹ sư, chuyên gia năng lượng đến năm 2030 (ưu tiên điện hạt nhân, năng lượng tái tạo); thu hút thêm chuyên gia giỏi.
Sáu là, tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ nguồn lực bên ngoài: Mở rộng hợp tác quốc tế, tham gia các cam kết toàn cầu như JETP; huy động vốn ODA và tài chính khí hậu cho năng lượng sạch. Khuyến khích nhập khẩu điện và đầu tư năng lượng ở nước ngoài để bổ sung nguồn cung.
Tóm lại, để đạt được mục tiêu an ninh năng lượng vững chắc vào 2030, Việt Nam không có cách nào khác ngoài việc hành động quyết liệt, đồng bộ trên nhiều mặt trận như trên. Từ xây dựng nguồn điện mới, cải cách chính sách giá, tiết kiệm năng lượng, đến đào tạo nhân lực và hợp tác quốc tế - tất cả phải được thực hiện song song với tinh thần “làm ngay, làm luôn”.
Thực tế triển khai sẽ là thách thức lớn nhất, đòi hỏi sự chỉ đạo sát sao ở tầm quốc gia. Nhưng với quyết tâm chính trị mạnh mẽ (đã được khẳng định qua Nghị quyết 70-NQ/TW) và sự vào cuộc của cả hệ thống, chúng ta có cơ sở để tin rằng những giải pháp trên sẽ được hiện thực hóa.
TS. Trần Văn Khải: Ngành năng lượng Việt Nam có đủ tiềm năng và ý chí để tiến tới năm 2030 đạt mục tiêu cung cấp đầy đủ năng lượng ổn định, chất lượng, giá hợp lý, bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia, phục vụ cho một nước Việt Nam thịnh vượng và bền vững.
Xin cảm ơn ông!
Quỳnh Nga
Nguồn Công Thương : https://congthuong.vn/nghi-quyet-70-nq-tw-mo-chuong-moi-cho-nganh-nang-luong-419213.html