Ảnh minh họa: Thu Thảo/Mekong ASEAN.
Thay mặt Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Tô Lâm vừa ký ban hành Nghị quyết 70-NQ/TW, ngày 20/8 về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Nghị quyết nêu rõ, ngành năng lượng đã duy trì tăng trưởng ổn định, cơ bản bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao cho phát triển nhanh và bền vững, bảo đảm quốc phòng, an ninh đất nước và nâng cao đời sống người dân.
Tuy vậy, ngành năng lượng vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Đáng chú ý, thể chế, chính sách, công tác quản lý phát triển ngành năng lượng còn bất cập. Tiến độ thực hiện nhiều dự án điện còn chậm; tiềm năng về năng lượng chưa được khai thác hiệu quả. Nguồn cung năng lượng còn phụ thuộc vào nhập khẩu, nguy cơ thiếu điện cho giai đoạn tăng trưởng hai con số là hiện hữu.
Thị trường năng lượng cạnh tranh phát triển chưa đồng bộ, thiếu liên thông giữa các phân ngành, nhất là thị trường điện còn nhiều hạn chế; chính sách giá năng lượng còn bất cập, chưa thực sự phù hợp với cơ chế thị trường; vẫn còn tình trạng bù chéo giá điện đối với một số nhóm khách hàng…
Tăng quyền lựa chọn của khách hàng
Trước những tồn tại đó, Nghị quyết 70 nêu ra nhiều nhóm nhiệm vụ, giải pháp cụ thể nhằm đảm bảo, thúc đẩy phát triển năng lượng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Đáng chú ý, Nghị quyết yêu cầu đẩy mạnh cơ cấu lại ngành điện, tăng cường tính cạnh tranh, minh bạch và bền vững. Phát triển cân đối, hợp lý giữa các nguồn điện, bảo đảm yêu cầu cao nhất là đủ điện cho phát triển kinh tế - xã hội, từng bước thực hiện cam kết quốc tế về giảm phát thải; ưu tiên phát triển các dự án nguồn điện có công suất lớn, hiệu quả cao, thân thiện môi trường...
Nghị quyết cũng yêu cầu phát triển thị trường điện theo hướng tăng cường tính cạnh tranh, minh bạch, hiệu quả, đồng bộ với bảo đảm an ninh năng lượng.
“Triển khai thực hiện hiệu quả cơ chế mua bán điện trực tiếp, đồng thời tăng cường quyền lựa chọn của khách hàng sử dụng điện trong việc tiếp cận và lựa chọn đơn vị cung cấp điện phù hợp với nhu cầu,” Nghị quyết nêu.
Hiện nay, EVN không còn độc quyền sản xuất nguồn điện nhưng vẫn là bên mua duy nhất trên thị trường bán buôn, độc quyền hệ thống truyền tải và bán lẻ điện. Điện đang được phân phối tới người dân và doanh nghiệp thông qua các công ty điện lực thuộc EVN. Khi thị trường điện cạnh tranh hoàn thiện, khâu bán lẻ điện - đơn vị cung cấp điện trực tiếp cho khách hàng cuối cùng, sẽ được tách bạch, tạo điều kiện để người dùng có quyền lựa chọn đơn vị bán lẻ phù hợp, thay vì chỉ mua từ EVN như hiện nay theo quy định tại Luật Điện lực 2024.
Cùng với đó, Nghị quyết 70 cũng nêu Việt Nam cần hoàn thiện hệ thống giao dịch, gồm cơ chế hợp đồng mua bán điện (PPA) minh bạch, ổn định, dài hạn, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhà đầu tư.
Doanh nghiệp tư nhân cũng được khuyến khích tham gia vào các dự án đầu tư hạ tầng lưu trữ năng lượng như pin tích trữ, kho LNG, kho xăng, dầu cả trên đất liền và trên biển. Ngoài ra, Nghị quyết của Bộ Chính trị cũng yêu cầu đổi mới cơ chế giá truyền tải điện để thu hút khu vực tư nhân đầu tư phát triển lưới điện truyền tải.
Sớm triển khai dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1, 2
Một điểm đáng chú ý nữa trong Nghị quyết 70 của Bộ Chính trị là về vấn đề phát triển điện hạt nhân. Theo đó, để đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước trong thời gian tới, nhất là thực hiện 2 mục tiêu chiến lược đến năm 2030 và năm 2045, công tác bảo đảm an ninh năng lượng có vai trò rất quan trọng; trong đó, phát triển điện hạt nhân được coi là một trong những giải pháp chiến lược.
Bộ Chính trị yêu cầu khẩn trương triển khai các dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2 với các đối tác phù hợp, bảo đảm lợi ích cao nhất của Việt Nam có tính đến thỏa thuận trước đây, đưa vào vận hành trong giai đoạn 2030 - 2035.
Ảnh minh họa: VGP.
Cùng với đó, xây dựng Chương trình phát triển điện hạt nhân theo các quy mô linh hoạt và các nhà máy điện hạt nhân lắp ráp module nhỏ; đẩy mạnh đầu tư cho nghiên cứu, phát triển công nghệ năng lượng nguyên tử, từng bước làm chủ công nghệ điện hạt nhân, bao gồm công nghệ lò phản ứng hạt nhân; lựa chọn công nghệ tiên tiến, phù hợp với điều kiện của Việt Nam, bảo đảm an ninh, an toàn tuyệt đối và tối ưu hóa hiệu quả tổng thể về kinh tế - xã hội; khuyến khích doanh nghiệp khu vực nhà nước và tư nhân tham gia phát triển điện hạt nhân module nhỏ.
Để bảo đảm triển khai hiệu quả, Nghị quyết 70 đặt mục tiêu đào tạo từ 25.000 - 35.000 kỹ sư, chuyên gia trong lĩnh vực năng lượng, đặc biệt ưu tiên cho ngành điện hạt nhân. Có chính sách ưu tiên đào tạo nhân lực chất lượng cao và thu hút chuyên gia là người nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài về nước làm việc trong lĩnh vực năng lượng hạt nhân, năng lượng tái tạo và năng lượng mới.
Đồng thời, khẳng định chủ trương khuyến khích doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân cùng tham gia phát triển điện hạt nhân, đặc biệt ở lĩnh vực nhà máy module nhỏ. Chủ trương này nhằm huy động tối đa nguồn lực xã hội, tăng sức cạnh tranh và nâng cao hiệu quả đầu tư.
Nghị quyết cũng đề cập nhiệm vụ tăng cường hợp tác quốc tế, mở rộng và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác quốc tế về năng lượng với các đối tác quan trọng trong tất cả các phân ngành, lĩnh vực. Đẩy mạnh hợp tác trong nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực cho phát triển điện hạt nhân và năng lượng mới.
Đẩy mạnh phát triển các dự án xuất khẩu điện năng lượng tái tạo sang các nước ASEAN và hợp tác quốc tế về điện hạt nhân với các nước có công nghệ tiên tiến. Chủ động, tích cực tham gia các tổ chức quốc tế về năng lượng hạt nhân, đặc biệt là IAEA. Triển khai các cam kết quốc tế trong việc nghiên cứu ứng dụng năng lượng hạt nhân cho mục đích hòa bình.
Trong tổng thể chiến lược an ninh năng lượng, Bộ Chính trị định hướng phát triển đồng bộ, đa dạng hóa các loại hình năng lượng, giảm dần tỷ trọng điện than, ưu tiên năng lượng tái tạo, năng lượng mới và điện khí. Điện hạt nhân cùng các nguồn năng lượng này sẽ đóng vai trò chủ chốt trong bảo đảm cung ứng điện ổn định, lâu dài, đáp ứng cam kết quốc tế về giảm phát thải khí nhà kính.
Mục tiêu tổng quát về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
Theo Nghị quyết 70 của Bộ Chính trị, đến năm 2030, tổng cung năng lượng sơ cấp khoảng 150 - 170 triệu tấn dầu quy đổi. Tổng công suất các nguồn điện khoảng 183 - 236 GW hoặc có thể cao hơn tùy thuộc vào nhu cầu hệ thống và tình hình phát triển kinh tế - xã hội theo thời kỳ.
Tổng sản lượng điện khoảng 560 - 624 tỷ KWh. Tỉ lệ năng lượng tái tạo trong tổng cung năng lượng sơ cấp khoảng 25 - 30%. Tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng khoảng 120 - 130 triệu tấn dầu quy đổi.
Hệ thống điện thông minh, hiệu quả, có khả năng kết nối an toàn với lưới điện khu vực; độ tin cậy cung cấp điện năng và chỉ số tiếp cận điện năng thuộc Top 3 nước dẫn đầu ASEAN…
Các cơ sở lọc dầu đáp ứng tối thiểu 70% nhu cầu xăng dầu trong nước; mức dự trữ xăng dầu đạt khoảng 90 ngày nhập ròng.
Phát triển cơ sở đầy đủ năng lực nhập khẩu khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) theo nhu cầu cấp cho các nguồn điện khí LNG và các nhu cầu khác; hình thành các trung tâm năng lượng tập trung khí LNG hài hòa các vùng miền.
Tỉ lệ tiết kiệm năng lượng trên tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng so với kịch bản phát triển bình thường khoảng 8-10%. Giảm phát thải khí nhà kính từ hoạt động năng lượng so với kịch bản phát triển bình thường khoảng 15-35%.
Tầm nhìn đến năm 2045, Bộ Chính trị yêu cầu bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia; thị trường năng lượng cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa...
Thu Thảo