GS.TS Phạm Hồng Quang, Chủ tịch Hội đồng giáo sư Ngành Khoa học giáo dục, Giảng viên cao cấp Trường ĐHGD-ĐHQG Hà Nội
Bối cảnh trong 10 năm tới, thực hiện các chủ trương đường lối của Đảng với quan điểm, mục tiêu, giải pháp và yêu cầu cụ thể chuẩn bị cho giai đoạn mới. Quan điểm đầu tiên của Nghị quyết 71 - NQ/TW đã xác định “Nhận thức sâu sắc, đầy đủ và thực hiện nhất quán quan điểm giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, quyết định tương lai dân tộc. Phát triển giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Nhà nước giữ vai trò định hướng chiến lược, kiến tạo phát triển, bảo đảm nguồn lực và công bằng trong giáo dục; bảo đảm đủ trường, đủ lớp, đủ giáo viên đáp ứng nhu cầu học tập của người dân…”.
Giải pháp: “Tập trung xây dựng đội ngũ nhà giáo…Rà soát, hoàn thiện tiêu chuẩn, quy chuẩn, bảo đảm số lượng, chất lượng, cơ cấu đội ngũ giáo viên; bố trí đủ số lượng biên chế giáo viên, nhân viên theo tiêu chuẩn quy định; nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; đẩy mạnh thực hiện chính sách ưu đãi, thu hút học sinh giỏi theo học ngành sư phạm...”. Từ quan điểm và giải pháp trên, cần quan tâm đồng bộ 4 vấn đề trọng tâm liên quan đến đào tạo giáo viên: Nhận thức, công nghệ, chương trình và quản lí.
Nhận thức
Bối cảnh mới cần xem lại những quan điểm tiếp cận mới đã có từ lâu. Hãy nghiên cứu thật kĩ quan điểm của UNESCO đã phát biểu gần 30 năm trước:“Đào tạo giáo viên trở thành chuyên gia giáo dục chứ không phải chuyên gia truyền đạt kiến thức”. Chỉ có năng lực và phẩm chất tầm “chuyên gia giáo dục” mới đủ sức giải quyết những vướng mắc của giáo dục phổ thông thời gian qua như: dạy tích hợp, giáo dục STEM và STEAM, chương trình giáo dục nhà trường, trường học thông minh, trường học hạnh phúc…Chuyên gia giáo dục thì mới đủ tầm để gánh vác trọng trách mới của hệ thống giáo dục trong chiến lược quốc gia 10-30 năm tới.
Thực tế các trường sư phạm mới “chuyển mình” được hơn 10 năm (từ 2013) về tự chủ chương trình đại học nhưng về cơ bản vẫn cách tiếp cận cũ-tiếp cận nội dung với khối kiến thức nặng nề, ít và khó thay đổi hàng năm và đặc biệt là chưa làm được điều này: “Chúng ta phải mở rộng quan niệm của mình bằng cách đưa vào nhà trường không chỉ nội dung của chủ đề môn học mà còn cả nền văn hóa” - phát biểu của Giáo sư Giáo dục, Đại học Washington-Seattle.
Giảng viên sư phạm phải chuyển mình mạnh mẽ, phải là chuyên gia sư phạm thực thụ. Ảnh minh họa
Theo đó, giảng viên sư phạm phải chuyển mình mạnh mẽ, phải là chuyên gia sư phạm thực thụ mới có thể khẩn trương thay đổi chương trình đào tạo giáo viên trong bối cảnh mới.
Theo đó, người học mới học được trong quá trình đó và trưởng thành (ví dụ, giảng viên sư phạm không có năng lực PTCT thì người học ra trường cũng không biết xây dựng chương trình nhà trường, giáo dục địa phương…); Năng lực kết nối, vai trò hướng dẫn, trách nhiệm dẫn dắt là 3 đặc tính mới của giảng viên sư phạm. Cộng đồng có khả năng, có khát vọng và trách nhiệm cống hiến cho giáo dục nhưng nhiều năm chúng ta bỏ quên dư địa này.
Nghị quyết 71 đã xác định rõ “Xây dựng chính sách phù hợp để huy động được người giỏi ngoài lực lượng nhà giáo tham gia giảng dạy, huấn luyện trong các cơ sở giáo dục; thực hiện chế độ giảng viên đồng cơ hữu cho những người giỏi đang công tác tại các đơn vị sự nghiệp công lập; có cơ chế khuyến khích huy động người giỏi chủ trì các hoạt động nghiên cứu khoa học tại các cơ sở giáo dục”.
Điều quan trọng là trong quá trình học tập ở nhà trường sư phạm, người học thấu hiểu giá trị của kết nối dưới quan điểm giáo dục mở, xã hội học tập để khi làm việc ở thực tiễn họ biết cách làm; AI và giáo viên. Điều quan trọng không ở vị trí việc làm, mà là vị trí ở tương lai thay đổi, chương trình sẽ cố gắng giúp người học tự xác định điều gì bất biến và điều gì khả biến. Đào tạo giáo viên là đào tạo chuyên gia giáo dục biết thích nghi với sự thay đổi trong bối cảnh VUCA (biến động, không chắc chắn, phức tạp, mơ hồ).
Công nghệ và giá trị của văn hóa học tập
Trong môi trường công nghệ, lại càng phải nhận diện đúng khái niệm công nghệ thay vì đuổi theo các phần mềm. 4 yếu tố cấu thành nên khái niệm công nghệ gồm: nguồn lực người (H), nguồn lực thông tin (I), nguồn lực tổ chức (O) và nguồn lực kĩ thuật (T). Sẽ không có nguồn lực nào quan trọng nhất, mà giá trị ở chỗ: (T) sẽ là đầu mối của kết nối với, và giữa (H-I-O).
Điều cần thiết trong đào tạo giáo viên là hình thành khả năng ngăn chặn xu hướng “đi tắt” đang phổ biến trong nhận thức từ mạng xã hội vào hoạt động học tập. Từ mức độ nhận diện thông tin ban đầu đã bao gồm cả thái độ, sự đánh giá và dẫn đến sự ngộ nhận về sự hiểu biết với mức độ khó kiểm soát ngày càng tăng.
Chiều sâu của văn hóa học tập đòi hỏi ý chí, bền bỉ và mức độ ảnh hưởng, sự lan tỏa và khả năng biến chuyển của các giá trị, quy trình và thực hành học tập trong một tổ chức, một cộng đồng hoặc một quốc gia được thấm sâu vào tư duy, hành vi và văn hóa chung.
Một nền văn hóa học tập có chiều sâu chính là môi trường khuyến khích sáng tạo, chấp nhận rủi ro, chia sẻ kiến thức, áp dụng kiến thức vào thực tế và học hỏi từ thất bại, từ đó thúc đẩy sự phát triển bền vững. Theo đó, không thể có nhân tài nếu không dựa trên nền tảng học vấn rộng.
Học sinh Phenikaa School trải nghiệm mô hình giáo dục STEM
Cần nhận diện đúng về đối tượng của quá trình sư phạm
Chương trình đào tạo giáo viên vẫn còn lỗ hổng kiến thức về Khoa học giáo dục-khoa học về giáo dục con người, đòi hỏi người làm giáo dục phải có năng lực thật sự hiểu biết về con người (nhất là là người đang trưởng thành).
Khối kiến thức tâm lí học (tâm lí học đại cương, tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm); giáo dục học đại cương (giáo dục học, lí luận dạy học, lí luận giáo dục) cần được giảng dạy sâu sắc, bài bản và chắc chắn hơn, giúp người học có được tư duy phương pháp luận đúng, quan điểm khoa học giáo dục hiện đại khi tiếp cận vấn đề của giáo dục với tư cách là một khoa học.
Do vậy, cần nhận diện đúng về đối tượng của quá trình sư phạm tổng thể được xác định rõ ràng và phương pháp luận, phương pháp, kĩ thuật tiếp cận đúng.
Thực tiễn đã cho thấy, nhiều công trình khoa học giáo dục (dạng đề tài, bài báo công bố) của các nhà nghiên cứu giáo dục cũng còn lỗ hổng khá rộng về nền tảng học vấn này, đặc biệt là nhóm chuyên ngành Lí luận và phương pháp giảng dạy bộ môn và Quản lí giáo dục. Đang có hiện tượng kĩ thuật hóa quá trình dạy học và coi đó là xu hướng chính của đổi mới giáo dục dù thiếu cơ sở lí thuyết; đang có suy luận rằng kĩ thuật dạy học tiên tiến sẽ mặc định đại diện cho nền giáo dục hiện đại.
Vấn đề năng lực và phẩm chất con người còn đang tiếp cận rời rạc từ phương pháp luận và quan điểm của giáo dục học về quá trình hình thành và phát triển nhân cách, có sự nhầm lẫn giữa năng lực và xu hướng năng lực người học.
Chương trình đào tạo giáo viên vẫn còn lỗ hổng kiến thức về Khoa học giáo dục -khoa học về giáo dục con người. Ảnh minh họa
Cần thấu hiểu quan điểm của Lênin“Người nào bắt tay vào giải quyết vấn đề riêng trước khi giải quyết vấn đề chung sẽ vấp phải cái chung một cách không tự giác”. Quan điểm này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xem xét vấn đề trong mối quan hệ tổng thể, không tách rời khỏi những vấn đề chung hoặc hệ thống lớn hơn, nếu không sẽ dẫn đến 3 hậu quả:
Người giải quyết vấn đề riêng lẻ sẽ liên tục gặp lại những vấn đề chung mà không nhận ra nguyên nhân sâu xa, dẫn đến những hậu quả không mong muốn lặp đi lặp lại.
Sai lầm về chính sách: Việc giải quyết vấn đề riêng lẻ mà không có sự định hướng chung sẽ khiến các chính sách trở nên thiếu nhất quán, dao động và không giữ vững nguyên tắc. Mất đi tính nguyên tắc: Khi không có cái nhìn tổng thể, người ta dễ dàng đưa ra những quyết định mang tính thời điểm, thiếu đi nền tảng lý luận vững chắc, từ đó mất đi tính nguyên tắc trong hành động.
Thực tiễn giáo dục đã chứng minh nếu xa rời các quan điểm phương pháp luận, sẽ gặp phải nhiều hệ lụy khó khắc phục. Rất mừng là trong NQ 71 về đột phá giáo dục, đã nêu bật các quan điểm căn cốt, nền tảng của giáo dục hiện đại:“Nhận thức sâu sắc, đầy đủ và thực hiện nhất quán quan điểm giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, quyết định tương lai dân tộc”. Thực hiện phương châm "thầy ra thầy, trò ra trò"; bảo đảm "học đi đôi với hành", "lý thuyết gắn liền với thực tiễn", "nhà trường gắn liền với xã hội";“Giáo dục bảo đảm hài hòa giữa tính toàn dân và tinh hoa, toàn diện và chuyên sâu, dân tộc và toàn cầu. Phát triển giáo dục trên nền tảng văn hóa, giá trị truyền thống dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa nhân loại, chuẩn mực quốc tế; giáo dục, đào tạo công dân Việt Nam trở thành công dân toàn cầu”. Đây là những quan điểm phương pháp luận quan trọng định hướng quá trình nghiên cứu, giảng dạy, vận dụng tri thức KHGD trọng điều kiện mới.
Quản lí giáo viên
Bổ sung chuẩn giáo viên có sứ mạng dẫn dắt người học, kết nối giữa gia đình-nhà trường-xã hội. Sứ mạng dẫn dắt cần hiểu rộng hơn các quan hệ cũ, sứ mạng kết nối cần được hiện đại hóa trong các môi trường người-người và môi trường số. Chuẩn này phải được thể hiện trong hoạt động giáo dục (gồm dạy học và giáo dục). Chuẩn này phải được cập nhật trong các chương trình bồi dưỡng hàng năm với các chuyên gia giáo dục có đẳng cấp khu vực và thế giới. Nghị quyết 71 đã xác định quan điểm chỉ đạo“Giáo dục bảo đảm hài hòa giữa tính toàn dân và tinh hoa, toàn diện và chuyên sâu, dân tộc và toàn cầu. Phát triển giáo dục trên nền tảng văn hóa, giá trị truyền thống dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa nhân loại, chuẩn mực quốc tế; giáo dục, đào tạo công dân Việt Nam trở thành công dân toàn cầu”.
Muốn thế hệ tương lai trở thành “công dân toàn cầu”, cần giáo viên và giảng viên sư phạm có tư duy toàn cầu, phương pháp tiếp cận giáo dục hiện đại và năng lực dự báo năng lực lõi của của người học trong tương lai. Ngay từ trong quá trình thực hiện chương trình đào tạo giáo viên, cần làm cho SV sư phạm định hướng trong tương lai họ phải có trách nhiệm hình thành 3 năng lực lõi của người học: Sáng tạo/học vấn rộng; Công nghệ/nhân văn -đạo đức; Ngoại ngữ/văn hóa toàn cầu. Từ 3 năng lực lõi này, cùng hệ giá trị người Việt Nam, các trường sư phạm có chiến lược chuẩn bị đội ngũ chuyên gia giáo dục để đào tạo ra thế hệ công dân mới-“công dân toàn cầu” có Tổ quốc.
Bổ sung tiêu chuẩn hiệu trưởng trường đại học sư phạm, đảm bảo tính chuyên nghiệp trong điều hành. Đi sâu vào tính chuyên nghiệp cần nhận diện đúng các khối năng lực của nhà lãnh đạo giáo dục, gồm: Năng lực chuyên gia giáo dục, Năng lực quản trị giáo dục, Năng lực xã hội -văn hóa với đặc tính hòa quyện giữa tư cách nhà giáo -nhà khoa học-nhà quản trị-nhà văn hóa…trong một con người. Trước hết xóa bỏ quan niệm người đang giảng dạy-mặc định là chuyên gia giáo dục, đã là người có hàm vị mặc định là nhà khoa học và đã là người có chức vụ mặc định là lãnh đạo giáo dục.
Ông V.Pu-tin (Tổng thống Nga) cho rằng có 2 điều làm suy yếu nước Nga, đó là tham nhũng và thiếu chuyên nghiệp. Để có một nền giáo dục mới, trước hết phải thay đổi cách nghĩ, cách làm, đảm bảo ngành giáo dục có tính chuyên nghiệp cao từ giáo viên, giảng viên đến người lãnh đạo giáo dục. Như yêu cầu của Nghị quyết 71- NQ/TW đã đề ra: “…Đất nước ta đang đứng trước vận hội lịch sử để phát triển bứt phá, yêu cầu xây dựng con người, xây dựng nguồn nhân lực đặt ra rất quan trọng và cấp bách, đòi hỏi phải đột phá phát triển giáo dục và đào tạo góp phần xây dựng thế hệ con người Việt Nam mới…”.
GS.TS Phạm Hồng Quang, Chủ tịch Hội đồng giáo sư Ngành KHGD, Giảng viên cao cấp Trường ĐHGD-ĐHQG Hà Nội