Nghĩa trang Hàm Rồng một chiều tháng Bảy

Nghĩa trang Hàm Rồng một chiều tháng Bảy
12 giờ trướcBài gốc
Giữa phố thị ồn ào, Nghĩa trang Liệt sỹ Hàm Rồng nằm lặng lẽ bên bờ Nam sông Mã trên vùng đất Nam Ngạn xưa, đây là nơi yên nghỉ của hơn 2.000 Anh hùng liệt sỹ. Họ là những người con ưu tú của xứ Thanh “ra đi” ở tuổi 20 trong các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và quân tình nguyện Việt Nam làm nghĩa vụ quốc tế tại Lào.
Chỉ cách một con đường bê tông, nhưng nghĩa trang Hàm Rồng lại bình yên đến lạ. Hai bên lối vào nghĩa trang là hàng xà cừ xanh ngát, ngày ngày sừng sững vươn mình đón nắng, đón gió, đón mưa. Bao năm qua, dù bão dông thế nào, hàng cây ấy vẫn hiên ngang đứng đó canh giấc ngủ ngàn thu cho những người lính kiên trung đang yên nghỉ trong lòng đất mẹ.
Dưới gốc cây xù xì, vài cụ già đang phe phẩy chiếc quạt nan, vừa để tránh nắng, vừa đơn thuần chỉ để thư giãn, trò chuyện. Cách đó không xa, những ngôi nhà tầng nối đuôi nhau san sát, hàng quán nườm nượp người lại qua. Nhưng ở nơi này, có một thế giới trong veo hoàn toàn khác.
Giữa hàng ngàn ngôi mộ nằm san sát nhau, hiên ngang đứng giữa đất trời như minh chứng hùng hồn về một thời khói lửa khiến lòng tôi cảm thấy rưng rưng. Tôi thấy mình trở nên bé nhỏ và thật may mắn biết bao giữa những khối màu trắng linh thiêng đang lặng lẽ phơi mình trong nắng.
Nơi đó, mỗi một phần mộ là một câu chuyện, một số phận, một cuộc đời riêng. Những con người nằm đây đã rời xa thế giới này, nhưng lòng yêu nước của các anh vẫn còn sống mãi với non sông, đất nước. Dù các anh là ai, đã sống như thế nào và đã chiến đấu vì lý tưởng gì thì tôi tin rằng, các anh đã hy sinh vì một lý tưởng cao đẹp, đó là vì nền hòa bình cho con cháu mai sau.
Tháng Bảy về, như một sự tri ân, dòng người lại đổ về Nghĩa trang Hàm Rồng với một tấm lòng thành kính. Họ là thân nhân các liệt sỹ, là những đồng đội năm xưa, cũng có thể chỉ là những người cùng chung một huyết mạch nguồn cuội trên mảnh đất xứ Thanh này... nhưng đều về đây thắp nén tâm nhang tưởng nhớ anh linh những người Anh hùng đã ngã xuống vì nền độc lập tự do của dân tộc.
Tháng Bảy về, với những người đồng đội năm xưa, những ngày này như một lời ước hẹn. Đó là lời hứa, sống cùng chiến đấu, chết cùng nằm lại nơi chiến trường... Và đến hôm nay, những ai còn sống sẽ quay trở về thăm đồng đội.
Giữa làn khói hương trầm mặc ở chốn không gian linh thiêng này, những tiếc nấc nghẹn ngào cứ vọng lên lặng lẽ. Đó là tiếng của những người vợ tới thăm chồng, mẹ tới thăm con, những người con tới thăm cha hay những thương bệnh binh về thăm đồng đội... Bao nhớ thương bấy lâu nay bị dồn nén nay như có cơ hội trực trào. Họ cứ lặng lẽ thắp hương cho từng phần mộ, nghiêng mình tưởng nhớ công ơn trước anh linh của những người đang nằm đó.
Tôi đứng lặng trước phần mộ của liệt sĩ Lê Đình Chinh, anh là con cả trong một gia đình có 6 người con. Anh xung phong nhập ngũ khi mới 15 tuổi. Ngày 25-8-1978, quân xâm lược Trung Quốc vượt biên sang Việt Nam. Anh đã cùng với đồng đội anh dũng chiến đấu chống lại kẻ thù và đã hy sinh khi mới 18 tuổi. Ngay trong năm 1978, Chủ tịch nước đã truy tặng liệt sỹ Lê Đình Chinh danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. Anh được an táng tại khu vực hang Muối (xã Hồng Phong, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn cũ), gần với đồi Pù Tèo Hào nơi anh đã hy sinh. Đến năm 1979, anh đã được đồng đội quy tập về Nghĩa trang Liệt sỹ huyện Cao Lộc (Lạng Sơn cũ). Sau 35 năm nằm lại nơi địa đầu của Tổ quốc, ngày 6-1-2013, hài cốt Lê Đình Chinh đã được đưa về an táng tại Nghĩa trang liệt sỹ Hàm Rồng.
Tuổi mười tám là tuổi đời đẹp nhất. Là tuổi mà chúng ta đang rong ruổi ngoài kia với bao ước mơ, hoài bão... Nhưng anh, cũng như biết bao đồng đội của anh đang nằm kia đã hiến dâng cả sự sống để đổi lấy nền độc lập, tự do cho dân tộc. Và có rất nhiều đồng đội còn nằm lại đâu đó, thân xác của các anh đã hóa vào cành cây, ngọn cỏ, con suối của núi rừng. Có những người may mắn hơn thì được trở về với gia đình nhưng một phần của cơ thể lại nằm lại nơi chiến trường khói lửa. Để rồi, những vết thương đau đớn kia vẫn ngày ngày rỉ máu. Bên những tấm bia của các anh, các chị chỉ ở độ tuổi mười tám, đôi mươi mà lòng tôi không khỏi nhói đau.
Những nén hương cháy đỏ được thắp ngay ngắn lên từng phần mộ tỏa ra thơm ngát, tôi như cảm nhận được tiếng cười trong veo vọng lên từ lòng đất mẹ. Đó là những nụ cười mãn nguyện xen lẫn sự tự hào khi thấy quê hương, đất nước đang vươn mình đổi thay mạnh mẽ.
Ngồi trước phần mộ của gia đình, đôi mắt ngấn lệ, bà Đỗ Thị Độ, phường Hạc Thành nấc lên thành tiếng: Vào những ngày này, tôi và em trai thường đến đây để chăm sóc phần mộ cho chú của mình. Đồng thời, thắp hương tưởng nhớ chú cùng các anh hùng liệt sỹ đã ngã xuống vì sự bình yên của đất nước. Gia đình tôi có 4 liệt sỹ, nhưng hiện có 2 người anh vẫn chưa tìm được phần mộ. Chỉ mong, các anh sớm về được với gia đình.
Có lẽ, chẳng riêng gì gia đình bà Độ mà đây là nỗi lòng của biết bao người mẹ, người vợ, người con đang ngày ngày mong ngóng tìm được người thân. Dòng người vẫn lặng lẽ bước đi bên những ngôi mộ, chẳng ai gọi tên ai nhưng tất cả đều nhắc đến hai tiếng “tri ân”.
Trong hàng nghìn ngôi mộ ở nơi này, tôi đặc biệt ấn tượng với hai ngôi mộ tập thể của những người lính tình nguyện Việt Nam, các anh hy sinh khi làm nhiệm vụ quốc tế bên nước bạn Lào.
Trong một cuộc thảm sát của giặc, khi quân ta đang trú ngụ, hoạt động trong hai chiếc hang ở nước bạn, bất ngờ bị bao vây đánh úp... Ngày tìm kiếm được hài cốt, đã không thể phân biệt danh tính từng người, nên khi quy tập về đây, những hài cốt nào cùng một hang thì được chôn cất trong cùng một huyệt mộ... Dù những phần mộ tập thể vô danh luôn được các tập thể, thân nhân liệt sỹ... thắp hương chu đáo nhưng sao vẫn làm tim tôi quặn thắt. Tôi lặng lẽ cúi đầu thật lâu, rồi nước mắt nhòa đi lúc nào không biết.
Những người lính ấy chẳng tiếc “Tuổi xuân”, anh dũng, kiên cường chiến đấu “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Các anh nằm xuống, sau làn khói hương nghi ngút ấy, đến một cái tên cụ thể cũng không thể gọi thành. Những người mẹ, người vợ... cũng không thể đắp cho chồng, con mình một nấm mồ tròn trịa. Khi các anh ngã xuống cũng là lúc máu thịt, linh hồn của những con người kiên trung ấy đã hòa làm một và trở thành bất tử.
Tôi chợt nhớ đến hình ảnh của mẹ tôi, năm nào cũng vào dịp này, mẹ lại lặng lẽ đứng bên bàn thờ người anh trai mà rơi nước mắt. Bác tôi là bộ đội chống Mỹ, bác hy sinh vào đầu những năm 1970. Ngoài tờ giấy báo tử, đến giờ gia đình tôi vẫn không biết bác đang nằm ở đâu trên dải đất hình chữ S này. Có lẽ, bác cũng như những người liệt sĩ vô danh kia, đã hòa vào trong lòng đất mẹ, nở một nụ cười mãn nguyện cho sự bình yên của Tổ quốc hôm nay.
Chiến tranh đã lùi xa, tất cả đã trở thành quá khứ. Nhưng những nỗi đau, nỗi nhớ mong da diết vẫn hằn sâu trong mắt người ở lại. Những người con kiên trung ấy đã đi vào những trang sử hào hùng của dân tộc, làm rạng danh cho đất nước muôn đời. Và những con người huyền thoại ấy sẽ mãi bất tử trong lòng người dân đất Việt.
Hà Đan
Nguồn Thanh Hóa : http://baothanhhoa.vn/nghia-trang-ham-rong-mot-chieu-thang-bay-256129.htm