Nghiên cứu phát triển hệ sinh thái công nghiệp khai thác khoáng sản (tiếp theo)

Nghiên cứu phát triển hệ sinh thái công nghiệp khai thác khoáng sản (tiếp theo)
7 giờ trướcBài gốc
Mời quý độc giả xem bài trước Tại đây
3.Kết quả và thảo luận
3.1. Cơ sở khoa học cho phát triển HST công nghiệp trong khai thác và chế biến khoáng sản
3.1.1. Cơ sở lý luận
Sinh thái công nghiệp có thể được coi là một quan điểm giúp tìm ra các giải pháp sáng tạo cho các vấn đề về tài nguyên và các vấn đề về môi trường, các nghiên cứu lĩnh vực này đưa ra quan điểm “hệ thống công nghiệp cần được sửa đổi để mô phòng hệ sinh thái tự nhiên trong hoạt động tổng thể của nó” (Frosch và Gallopoulos 1992) [4], đây là sự chuyển đổi từ phát triển kinh tế sản xuất của thị trường tự do mà xã hội thống trị với các thể chế được xây dựng trên mô hình đó tới cơ chế tuần hoàn theo dòng vật chất HST.
Bằng phép ẩn dụ cho rằng có thể đưa quy trình sản xuất công nghiệp cố gắng theo mô hình hóa các quy trình trao đổi chất của sự sống [5]. Trong một hệ sinh thái công nghiệp, “việc tiêu thụ năng lượng và vật liệu được tối ưu hóa và các chất thải của một quy trình... đóng vai trò là nguyên liệu thô cho một quy trình khác” (Frosch và Gallopoulos 1989)[6], rất giống với dòng chất dinh dưỡng trong các hệ sinh thái sinh học. Mạng lưới các khu công nghiệp được coi là một hệ thống các quy trình chuyển đổi phụ thuộc lẫn nhau của các thành phần có mối quan hệ với nhau trong một tổng thể lớn hơn, “tương tự như chu trình hoạt động của các quân xã sinh vật với môi trường của chúng" (Frosch và Gallopoulos 1992[4].
Tuy nhiên trong lịch sử hình thành sinh quyển, tất cả các thành phần hữu cơ bao gồm các quần xã sinh vật đều đạt tới trạng thái cực đỉnh phù hợp với môi trường sống. Chúng có cấu trúc chặt chẽ trong thành phần, số lượng cả thể, chu trình vật chất và năng lượng thông qua các tương tác cộng sinh và xích thức ăn. Trước khi có sự tác động của con người, hay nói cách khác, cách đây khoảng 6 triệu năm, khi loài người còn là một sinh vật bình đẳng với các sinh vật khác của hành tỉnh, tất cả các HST trên trái đất đều hoạt động tương đối ổn định và chỉ chịu sự tác động của quy luật tự nhiên và hình thành quá trình tiến hóa. Không có nơi nào trên trái đất chứa đựng chất thải mà chúng được cô đặc trong sinh khối hoặc trong vỏ trái đất. Sự tiến hóa vượt bậc của trí tuệ con người đã hình thành nên tư duy chỉnh phục tự nhiên, tác động mạnh đến tự nhiên bằng quy trình sản xuất (đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp) tuyến tỉnh đã gây ra hậu quả trầm trọng cho chính con người.
Hợp tác với tự nhiên là hướng đi tất yếu của con người trong thay đổi tư duy, vì vậy, trao đổi chất tuần hoàn trong công nghiệp được tư duy là sự hiểu biết về dòng vật liệu và năng lượng trong và giữa các hệ thống công nghiệp và chức năng sinh thái môi trường, cũng như sự chuyển đổi của chúng thành các sản phẩm, sản phẩm phụ và chất thải tuần hoàn- là nền tảng của sinh thái công nghiệp (Garner và Keoleian 1995)[7], hiểu biết sâu sắc về dòng vật liệu là bước đầu tiên để tăng hiệu quả sinh thải của quá trình trao đổi chất của xã hội bằng cách khép dòng vật liệu vào các vòng tuần hoàn tái chế và tái sử dụng. Trong một phạm vi không gian địa lý cụ thể, phân tích dòng chảy của vật liệu và năng lượng ở cấp độ hệ thống sẽ dẫn đến các khái niệm như quản lý sản phẩm và quản lý chuỗi vật chất tích hợp; các khái niệm này có tỉnh đến việc sản xuất và sử dụng các sản phẩm cụ thể theo vòng đời.
Tư duy vòng đời sản phẩm cho cách nhìn tổng quát về kiểm soát ô nhiễm và phòng ngừa ô nhiễm. Cả phòng ngừa ô nhiễm và sinh thái công nghiệp đều hướng đến mục tiêu giảm phát thải và chất thải, tuy nhiên, một điểm khác biệt nữa giữa hai khái niệm này là phòng ngừa ô nhiễm hướng đến các công ty hoặc cơ sở riêng lẻ, nhấn mạnh các hoạt động trong công ty, trong khi sinh thái công nghiệp hướng đến sự phụ thuộc và các hoạt động chung giữa các công ty trên cơ sở mỗi đơn vị sản xuất phải đạt được các tiêu chuẩn, quy chuẩn của dây chuyền công nghệ, cơ sở hạ tầng và các quy trình xử lý ô nhiễm. Ngoài ra tư duy vòng đời sản phẩm còn liên quan chặt chẽ đến quy trình tái chế và tái sử dụng nhằm giảm thiểu tối đa hoặc loại bỏ không gian chứa chất thải tiến đến tiệm cận HST mô phòng tự nhiên, có khả năng hòa nhập (hay là khảm chúng vào) các HST lân cận. Tương tự như HST tự nhiên, quy mô của HSTCN có thể được biết đến từ các cụm công nghiệp, các phạm vi ranh giới khu vực tới toàn cầu thông qua các liên kết vĩ mô với các nền kinh tế xã hội khác.
Các thuộc tính của HSTCN [7] được xác định cơ bản như sau:
Quan điểm hệ thống về sự tương tác giữa các hệ thống công nghiệp và hệ sinh thái,
Nghiên cứu về dòng vật chất và năng lượng và sự chuyển đổi của chúng thành sản phẩm, sản phẩm phụ và vật liệu thái thông qua các hệ thống công nghiệp và tự nhiên (quá trình trao đổi chất công nghiệp).
Tiếp cận đa ngành bền vững như đa dạng HST.
Định hướng hướng tới tương lai.
Thay đổi từ các quy trình tuyến tính, mở sang các quy trình khép kín, tuần hoàn để chất thải từ một lĩnh vực trước làm đầu vào cho lĩnh vực khác.
Nỗ lực giảm tác động môi trường của các hệ thống công nghiệp lên các hệ sinh thái.
Nhấn mạnh vào khả năng hòa nhập hài hòa giữa hoạt động công nghiệp vào các hệ sinh thái.
Ý tưởng thiết kế hệ thống công nghiệp mô phỏng theo các hệ thống tự nhiên hiệu quả và bền vững hơn.
Xác định và so sánh các hệ thống phân cấp công nghiệp với các phân cấp của HST tự nhiên theo hướng tiến hóa phù hợp nhất với sinh cảnh, chỉ ra các lĩnh vực nghiên cứu và hành động tiềm năng quản lý dòng vật chất và ô nhiễm môi trường.
Các công cụ đánh giá HSTCN được hình thành dựa trên phân tích dòng chảy vật liệu, vật chất theo định luật nhiệt động lực học thứ nhất: vật chất được bảo toàn từ dạng này sang dạng khác mà không mất đi. Đánh giá vòng đời của sản phẩm mớ rộng sang các phân tích này bằng cách cố gắng định lượng tác động môi trưởng của việc sử dụng vật liệu và chất trong các thiết kế sản phẩm cụ thể. Hồ sơ môi trường thu được của một sản phẩm có thể được sử dụng để so sánh với các sản phẩm cạnh tranh hoặc để đề xuất các cách cải thiện thiết kế sản phẩm cụ thể đó, nghĩa là thiết kế sản phẩm vì môi trường. Đây là những công cụ quan trọng nhất của hộp công cụ sinh thái công nghiệp', mỗi công cụ có một hoặc nhiều trong bồn chức năng cơ bản (Van Berkel và cộng sự 1997a)[8]:
Cho phép xác định, định lượng và phân bổ các biện pháp can thiệp vào môi trưởng cho (các bộ phận của) quy trình sản xuất và vòng đời sản phẩm.
Tạo điều kiện thuận lợi cho việc tạo ra các tùy chọn cải tiến cho thiết kế sản phẩm, vòng đời sản phẩm và quy trình sản xuất.
Cung cấp một phương pháp tiếp cận có tiêu chí để đánh giá và thiết lập thứ tự ưu tiên giữa các biện pháp can thiệp vào môi trường và/hoặc các tùy chọn cải thiện môi trường.
Ban hành quy chế chỉ định các thủ tục và quy trình cho việc phát triển các dự án sinh thái công nghiệp.
Toàn cảnh nhà máy khai thác chế biến khoáng sản tại mỏ đa kim Núi Pháo.
Quan điểm chung của các nhà khoa học đều thống nhất là, sinh thái công nghiệp thực chất là một hướng ứng dụng của khoa học môi trường bao gồm cả khoa học quản lý, chính sách, cơ chế cho hướng phát triển này. Tại Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết định số 866/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Trong đó, việc thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng khoáng sản phải phủ hợp với chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, phù hợp với quy hoạch tổng thể quốc gia. Mục tiêu là phát triển bền vững hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản là tài nguyên khoáng sản được quản lý chặt chẽ, khai thác, chế biến, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, gắn với nhu cầu phát triển của nền kinh tế, giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái, cảnh quan. Phát triển tập trung, đồng bộ, hiệu quả với công nghệ tiên tiến, thiết bị hiện đại, phù hợp với xu thế của thế giới. Theo Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản, mục tiêu đối với một số loại khoáng sản có trữ lượng lớn, chiến lược, quan trọng trong giai đoạn 2021-2030:
Khoáng sản bô-xit: Việc thăm dò, khai thác phải gắn với chế biến sâu (tối thiểu ra đến sản phẩm alumin).
Khoáng sản titan: Phát triển công nghiệp khai thác, chế biến với lộ trình và quy mô hợp lý phù hợp với từng giai đoạn, từng bước hình thành các tổ hợp công nghệ mỏ - tuyên, cụm công nghiệp chế biến khoáng sản titan đồng bộ với hạ tầng.
Khoáng sản đất hiếm: Phát triển ngành công nghiệp khai thác, chế biến và sửdụng một cách đồng bộ, hiệu quả và bền vững. Đối với các doanh nghiệp được cấp phép mới khai thác khoáng sản đất hiếm phải gắn với dự án chế biến đến sản phẩm tối thiểu là tổng các ôxít, hydroxit, muối đất hiếm có hàm lượng TREO ≥ 95%.
Khoảng sản niken, đồng, vàng: Hoạt động khai thác phải đi kèm dự án đầu tư chế biến một cách đồng bộ, hiệu quả, bền vững và thu hồi tối đa các khoáng sản đi kèm và đảm bảo môi trường.
Theo Điều 67, Luật Bảo vệ môi trường, tổ chức, cá nhân tiến hành thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản phải có phương án phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường và thực hiện các yêu cầu về bảo vệ, cải tạo và phục hồi môi trường: Thu gom, xử lý nước thải theo quy định; Thu gom, xử lý chất thải rắn theo quy định về quản lý chất thải rắn; Có biện pháp ngăn ngừa, hạn chế việc phát tán bụi, xả khí thải và tác động xấu khác đến môi trường xung quanh; Có phương án cải tạo, phục hồi môi trường và tiến hành cải tạo, phục hồi môi trường trong hoạt động khai thác khoảng sản theo quy định của Luật này và quy định của pháp luật về khoáng sản; Ký quỹ bảo vệ môi trường theo quy định tại Điều 137 của Luật Bảo vệ môi trường.
Với quan điểm mục tiêu phát triển bền vững, không đánh đổi môi trường lấy phát triển kinh tế, chỉ đạo của nhà nước nhất quán thông qua các Bộ, ngành, địa phương ngay từ khâu chấp thuận chủ trương đầu tư, đánh giá tác động môi trường của các dự án khai thác, chế biến khoáng sản, trong đó ưu tiên sàng lọc, loại trừ các dự án có công nghệ lạc hậu, có nguy cơ ô nhiễm môi trường. Có kế hoạch giải quyết các vấn đề ô nhiễm môi trường; thu phí bảo vệ môi trường, ký quỹ bảo vệ môi trường trong khai thác khoáng sản.
Dây chuyền chế biến tinh luyện khoáng sản hiện đại tại Masan High-Tech Materials.
Nghị định số 35/2022/NĐ-CP với các quy định về chính sách hỗ trợ và hợp tác phát triển khu công nghiệp sinh thái, tiêu chí xác định, các ưu đãi, trình tự, thủ tục, hồ sơ đăng ký chứng nhận khu công nghiệp sinh thái, doanh nghiệp sinh thái, các quy định chứng nhận lại hoặc chấm dứt hiệu lực, thu hồi Giấy chứng nhận khu công nghiệp sinh thái, doanh nghiệp sinh thái. Nghị định đã chỉ ra lộ trình hình thành và phát triển các khu CNST như là hướng đi tất yếu của Việt Nam. Điểm nhấn mạnh là, Nghị định khuyến khích, định hướng việc quy hoạch và xây dựng mới các khu công nghiệp sinh thái hợp lý với các phân khu chức năng có ngành, nghề tương đồng để thực hiện cộng sinh công nghiệp, khuyến khích phát triển khu công nghiệp sinh thái mới.
Nghị định xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc định hướng và triển khai các khu công nghiệp sinh thái. Các tiêu chí và thủ tục đơn giản, dễ thực hiện, ngoài ra, Nghị định 35/2022/NĐ-CP đã bổ sung các quy định đảm bảo điều kiện an sinh xã hội cho người lao động, yêu cầu các địa phương quy hoạch quỹ đất xây dựng nhà ở, công trình dịch vụ, tiện ích công cộng cho người lao động làm việc trong các khu công nghiệp. Đây chính là những thuộc tỉnh cơ bản của HSTCN trong đó không loại trừ các ngành CN khai thác và chế biến khoáng sản ở nước ta.
Giai đoạn 2024-2028, Chính phủ Thụy Sỹ đã cam kết tiếp tục cùng UNIDO đồng hành với Việt Nam đây mạnh triển khai khu công nghiệp sinh thái gắn với kinh tế tuần hoàn. Văn kiện Dự án "Nhân rộng phương pháp tiếp cận khu công nghiệp sinh thái để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam," với tổng vốn hỗ trợ 3,6 triệu USD do Tổng cục Kinh tế Liên bang Thụy Sỹ tài trợ đã được Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư phê duyệt tháng 8/2024. Dự án tiếp tục đẩy mạnh thực hiện khu công nghiệp sinh thái tại Hải Phòng, Bắc Ninh, Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh và Long An trong giai đoạn 2024-2028. Phái đoàn liên minh châu Âu (EU), tổ chức Sáng kiến Thương mại bền vững Việt Nam của Hà Lan (IDH),... triển khai các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp trong các khu công nghiệp thực hiện kinh tế tuần hoàn trong sản xuất, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của chuỗi ngành hàng để tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, khu công nghiệp sinh thái sẽ đóng góp đáng kể vào nỗ lực ứng phó với biến đổi khí hậu, huy động nguồn lực từ khu vực tư nhân cho giải pháp công nghiệp xanh, đảm bảo an ninh năng lượng, thể hiện quyết tâm chính trị của Chính phủ trong việc thực hiện các cam kết phát triển bền vững (Nguồn: Ban Tuyên giáo trung ương) [9]
Về lĩnh vực khai thác chế biến khoáng sản, Luật khoáng sản năm 2010 (cập nhật dự thảo luật năm 2024) đã quy định: "Luật này quy định việc điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản, bảo vệ khoáng sản chưa khai thác, thăm dò, khai thác khoáng sản, quản lý nhà nước về khoáng sản trong phạm vi đất liền, hải đảo, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc thù kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam" Các quy định về chiến lược, quy hoạch khoảng sán theo Luật Khoáng sản có 3 điểm quan trọng: 1. Quy định về chiến lược khoáng sản, đặc biệt là quy định kỳ chiến lược theo giai đoạn 10 năm, tầm nhìn 20 năm. (Điều 9). 2. Quy định 4 loại quy hoạch khoáng sản làm giảm tính tùy tiện trong quản lý công nghiệp khai khoáng (Từ Điều 10 đến Điều 13). 3. Quy định về việc lấy ý kiến đóng góp trong quá trình lập quy hoạch và việc phải công bố quy hoạch một cách rộng rãi (Điều 15). Luật đã quy định rất rõ về công tác đánh giá môi trường trong hoạt động khoáng sản. Việc quy định Danh mục các dự án về khai thác khoáng sản phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường dựa vào hai căn cứ chính: loại khoáng sản và công suất khai thác Những quy định mới này được xem là lộ trình cho đổi mới ngành công nghiệp khai thác tiến tới hình thành mạng lưới kinh tế ổn định.
Bên cạnh đó nhiều văn bản pháp lý đã ban hành định hướng cho chiến lược phát triển và quản lý hiệu quả ngành công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản. Nghị quyết số 02/NQ/TW ngày 25 tháng 4 năm 2011 về định hướng chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Nghị quyết về việc ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 02/NQ/TW ngày 25 tháng 4 năm 2011 của chính phủ; Chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 của chính phủ năm 2011; Nghị định 15/2012/NĐ-CP ngày 09/3/2012 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật khoáng sản; Chỉ thị số 02/CT-TTg ngày 09/01/2012 về việc tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng và xuất khẩu khoáng sản. Quyết định số 1658/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050, ngày 01/10/2021; Quyết định 687/QĐ-TTg ngày 7/6/2022 Phê duyệt đề án phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam;
3.1.2. Cơ sở thực tiễn
Hệ sinh thái công nghiệp là hệ sinh thái nhân tạo, được quy định bởi sự tác động của hoạt động sản xuất và công nghiệp. Đặc điểm của hệ sinh thái công nghiệp bao gồm: Sự đa dạng thấp và không ổn định, ô nhiễm môi trường, thay đổi cảnh quan tự nhiên, dòng vật chất phụ thuộc một chiều vào tài nguyên, kết nối sinh vật (trong đó có con người) với thiên nhiên bị hạn chế.
Quan niệm hiện nay về HSTCN thường ẩn dụ đó là HST đạt tới trạng thái ổn định, có thể đủ các tiêu chí hòa nhập với các HST khác trong tự nhiên. Vì vậy HSTCN được định nghĩa là “Một cộng đồng các doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ tìm kiếm hiệu suất kinh tế và môi trường được cải thiện thông qua sự hợp tác trong việc quản lý các vấn đề về môi trường và tài nguyên... Bằng cách làm việc cùng nhau, cộng đồng doanh nghiệp tìm kiếm lợi ích chung lớn hơn tổng lợi ích riêng lẻ mà mỗi công ty sẽ nhận được nếu chỉ tối ưu hóa hiệu suất riêng lẻ của mình. Mục tiêu của HSTCN là cải thiện hiệu suất kinh tế của các công ty tham gia đồng thời giảm thiểu tác động của họ đến môi trường" (Lowe 1997)[10].
Còn nữa...
PGS.TS Lưu Đức Hải, Trần Văn Thụy,
Lê Xuân Thái
Nguồn Kinh tế Môi trường : https://kinhtemoitruong.vn/nghien-cuu-phat-trien-he-sinh-thai-cong-nghiep-khai-thac-khoang-san-tiep-theo-99722.html