Ngòi bút tiên phong Thái Duy

Ngòi bút tiên phong Thái Duy
6 giờ trướcBài gốc
Nhà báo Thái Duy tại vùng giải phóng miền Nam năm 1965.
1. Sinh năm 1926 trong một gia đình công chức ở Bắc Giang, Thái Duy (tên thật là Trần Duy Tấn) mê nghề báo từ thuở thiếu thời. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, chàng trai Trần Duy Tấn thường tổng hợp tin tức trên báo rồi trèo lên cây cao đầu làng phát thanh cho dân làng nghe tình hình thời sự và chủ trương của Việt Minh. Sau này, nhiều người bảo như thế đã là tham gia cách mạng, nhưng ông nói: “Đấy là tự tôi, tôi thích thế, không phải kể vào để lấy thành tích!”.
Năm 1949, Thái Duy được nhận vào Báo Cứu Quốc (do nhà báo Xuân Thủy làm Chủ nhiệm), suốt đời chỉ làm ở một tờ báo của Mặt trận.
Ông kể về ngày đầu vào nghề: “Mấy năm liền tôi viết bài cho báo, không đăng, tôi vẫn cứ gửi, đến nỗi cả tòa soạn nhớ tên tôi. Một hôm tôi được mời đến báo, tiếp tôi là Thư ký tòa soạn Nam Cao. Ông nói vỗ vào mặt tôi: “Nói thật, bài cậu viết nhạt quá, nhưng thấy cậu say mê quá, gan góc quá, tớ thử lấy cậu xem sao... Liệu mà học và trụ cho được”.
Báo Cứu Quốc là tờ báo ra hằng ngày lớn nhất trong nước khi đó. Đội ngũ đều là những tên tuổi nổi tiếng như Xuân Thủy, Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng... Trong đó, Xuân Thủy là một nhà báo bậc thầy, nhà quản lý bậc thầy. Hiểu đặc thù của nghề báo nên nhà báo Xuân Thủy cho phóng viên tự đi thực tế, tự tìm đề tài, đi mấy tháng cũng được; tất nhiên có những đề tài do tòa soạn yêu cầu. Điều này rất hợp với tính cách của Thái Duy.
2. Vốn thích xông xáo ở những nơi nóng bỏng, ác liệt nên Trần Duy Tấn xin đi theo Đại đoàn 308. Không lương, không được hỗ trợ gì từ tòa soạn (do giao thông liên lạc thời đó khó khăn), ông “ăn theo” bộ đội, sinh hoạt như bộ đội và tác nghiệp độc lập. Đại đoàn 308 có một Trung đoàn trưởng tên là Thái Dũng, nổi tiếng là dũng cảm, hào hoa. Mê tính cách của vị chỉ huy này, chàng phóng viên trẻ Trần Duy Tấn xin làm “đồ đệ”, từ đó lấy bút danh là Thái Duy. Ông đã nhiều năm xông pha trên chiến trường Lào, trong chiến dịch Điện Biên Phủ và gửi bài đều đặn cho Báo Cứu Quốc, góp phần làm tờ báo nóng lên hơi thở chiến trường. Bài viết của Thái Duy luôn được bộ đội và nhân dân hồ hởi đón đọc.
Trong kháng chiến chống Mỹ, năm 1964, Thái Duy (mang bí danh Trần Đình Vân) và nhà báo Tống Đức Thắng (Tâm Trí) đi bộ ròng rã 3 tháng vượt Trường Sơn vào Tây Ninh và cùng một số đồng nghiệp Nam Bộ sáng lập Báo Giải Phóng. Báo Giải Phóng ra số đầu ngày 20-12-1964, gồm 12 trang in đen trắng, đồng loạt xuất hiện trong các vùng giải phóng, vùng ven, thậm chí cả ở nội đô Sài Gòn và ra Hà Nội qua đường Phnom Penh (Campuchia), đã thổi một hồi kèn xung trận làm nức lòng quân dân cả nước.
Tháng 3-1965, chị Phan Thị Quyên, vợ Anh hùng Nguyễn Văn Trỗi, lúc này đã tham gia biệt động, là đại biểu tham dự Đại hội đại biểu Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng Miền Nam Việt Nam tại căn cứ Dương Minh Châu (Tây Ninh). Thái Duy được giao nhiệm vụ gặp và ghi chép những chuyện kể của chị Quyên về anh Trỗi, hạn trong 15 ngày phải xong. Bản thảo được một phóng viên Liên Xô mang ngay ra miền Bắc qua đường hàng không từ Phnom Penh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc, khen ngợi và chỉ đạo in thành sách, do chính Người đề tựa.
Từ cái tên ban đầu là “Những lần gặp gỡ cuối cùng”, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đổi tên sách thành “Sống như Anh”. Sách được NXB Văn học xuất bản lần đầu tháng 7-1965, in 302.000 bản, sau đó tái bản liên tục với số lượng hàng triệu bản. Cho đến nay chưa có cuốn sách nào ở Việt Nam vượt qua kỷ lục này. “Sống như Anh” tạo nên một sức mạnh tinh thần to lớn ở cả hai miền Nam - Bắc. Qua ngòi bút già dặn của tác giả Trần Đình Vân (Thái Duy), mỗi câu nói của anh Trỗi đã trở thành một chân lý: “Còn thằng Mỹ thì không ai có hạnh phúc nổi cả”, “Kẻ có tội không phải là tôi, kẻ có tội là bọn Mỹ”...
Sau “Sống như Anh”, Thái Duy còn có các tác phẩm nổi tiếng khác về đề tài chiến sĩ biệt động, như “Người tử tù Khám lớn”, “Những đồng đội của Nguyễn Văn Trỗi”...
Năm 1977, Báo Cứu Quốc sáp nhập với Báo Giải Phóng thành Báo Đại Đoàn Kết, Thái Duy vẫn là phóng viên “chân trơn”. Đã nhiều lần tôi hỏi ông về chuyện này, ông nói: “Chẳng phải tại người ta. Tại tôi bảo tôi không biết làm quản lý. Để người khác làm tốt hơn... Từ trước tôi thích làm phóng viên, được làm phóng viên là tôi sung sướng rồi!”.
Chỉ là phóng viên nhưng Thái Duy từng được Bác Hồ, Fidel Castro và cả Mao Trạch Đông đón tiếp, được trọng vọng trong các kỳ cuộc liên quan đến báo chí. Ấy là nhờ những tác phẩm của ông, nhờ cốt cách của ông, một nhà báo - chiến sĩ trọn đời.
3. Thái Duy tiên phong đi chiến trường. Ông cũng là người tiên phong trong thời kỳ Đổi mới, đặc biệt với mảng đề tài khoán mới trong nông nghiệp và chống tiêu cực.
Thử hình dung lại đời sống nông dân, nông thôn hồi đó. Ở miền Bắc, mức bình quân lương thực đầu người năm 1961 là 24kg/tháng, đến năm 1965 giảm chỉ còn 14kg/tháng; đã thế hạt gạo còn phải chia ba, chia bốn cho chiến trường. Thế hệ trẻ bây giờ, khi Việt Nam đã là một “cường quốc lúa gạo”, có thể không thể hiểu được tình cảnh “đói quay, đói quắt” kéo dài suốt mấy thập kỷ cho đến cuối những năm 1980. Là người chỉ nhìn thẳng vào sự thật và trung thành với sự thật, Thái Duy nhức nhối với câu hỏi vì sao cũng con người ấy, đồng đất ấy mà ruộng 5% năng suất hơn hẳn ruộng hợp tác xã, nhức nhối với câu ca đầy oán thán: “Một người làm việc bằng hai/ Để cho chủ nhiệm mua đài, mua xe”. Và ông đã nhìn thấy những người nông dân táo bạo “xé rào” tìm đến khoán mới, hồi đó gọi là “khoán chui”, vì hợp tác xã gắn liền với công hữu, vì như thế là đi ngược đường lối của Đảng, đi ngược với chủ nghĩa xã hội.
“Khoán chui hay là chết”. Đó là lựa chọn của người nông dân, là thức tỉnh trong lòng nhà báo. Nếu như các báo Văn nghệ, Đại Đoàn Kết, Tiền Phong khoảng giữa thập kỷ 80 của thế kỷ trước có những bài viết chấn động xã hội như “Cái đêm hôm ấy đêm gì” (của Phùng Gia Lộc), “Người đàn bà quỳ” (Trần Khắc), “Câu chuyện về ông vua lốp” (Trần Huy Quang), “Thủ tục làm người còn sống” (Minh Chuyên), “Mùa xuân nhớ Bác” (Phan Thị Xuân Khải)..., thì trên mặt trận nông nghiệp, các cây bút Hữu Thọ, Phan Quang, Lê Điền, Thái Duy... đã đi những bước tiên phong sớm hơn.
Trước thực tế xã hội đầy rẫy khó khăn, thiếu thốn, Thái Duy trăn trở: Tại sao nông dân lại chịu khổ lâu như vậy? Ông viết báo không phải bằng mực, mà bằng máu rỉ ra từ trái tim. Thái Duy trở thành một người lính xung kích hàng đầu trong cuộc chiến đấu cho khoán mới với hàng trăm bài viết như “Một cuộc cách mạng”, “Ngọn gió Hải Phòng”, “Phá thế độc canh ở Thái Bình”, “Cơ chế mới, con người mới”, “Khoán chui hay là chết”... Những bài báo đó đã góp phần làm nên cuộc cách mạng trong nông nghiệp đi từ Khoán 100 đến Khoán 10, sau này được tập hợp in thành sách “Khoán chui hay là chết” (NXB Trẻ, 2013) - một kỳ đài mới trong sự nghiệp làm báo của Thái Duy. Chỉ thị 100 đã làm cho thời kỳ 1981 - 1985 có tốc độ tăng trưởng nông nghiệp bình quân tăng 4,9%/năm, sản lượng lương thực từ 11,64 triệu tấn (1980) tăng lên 15 triệu tấn (1981). Năm 1988, sản lượng lương thực cả nước đạt 19,58 triệu tấn, nhưng chỉ 1 năm sau khi có Khoán 10 (1989) đã tăng lên 21,58 triệu tấn. Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo từ đó.
Nhà báo Hữu Thọ, một ngòi bút kiên cường trên mặt trận văn hóa tư tưởng, người tổng kết và yêu cầu người làm báo phải có “mắt sáng, lòng trong, bút sắc”, đã viết trên Báo Nhân Dân số ra ngày 22-4-2013 như sau: “Cuộc đấu tranh cho chủ trương khoán sản phẩm ra đời rất quyết liệt, không chỉ quyết liệt ở cơ sở mà quyết liệt cả từ những người và cơ quan cấp cao. Những người không đồng ý khoán sản phẩm cuối cùng tung ra rất nhiều cái mũ to, cho rằng “nếu thực hiện khoán sản phẩm cuối cùng thì nên đốt sách Mác - Lênin đi”, thậm chí cho rằng “thực hiện khoán sản phẩm là bỏ Đảng”... Các bạn đồng nghiệp cùng chung lưng đấu cật trong cuộc đấu tranh này như Thái Duy, Lê Điền ở Báo Đại Đoàn Kết, Hồng Giao ở Tạp chí Học tập, Đình Cao ở Thông tấn xã, Đắc Hữu ở Báo Hà Sơn Bình..., trong đó theo tôi thì nhà báo hăng hái xông pha trận mạc, viết nhiều nhất trong số chúng tôi chính là Thái Duy”.
Hoàng Nhật
Nguồn Hà Nội Mới : https://hanoimoi.vn/ngoi-but-tien-phong-thai-duy-705782.html