Ngôi chùa tri ân vị thầy thuốc tài giỏi

Ngôi chùa tri ân vị thầy thuốc tài giỏi
3 giờ trướcBài gốc
Vị ân nhân tặng đất xây chùa
Trong cuốn sách "Di sản văn hóa làng Yên" của tác giả Khương Duy Anh (NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2013) cho biết xóm nhỏ này ngoài chùa Tây Phương, chùa Am còn có chùa Quan Âm, thường gọi là chùa Quan Quận. Ngôi chùa này gắn liền với tài đức của vị danh y Khương Hữu Dực.
Năm Cảnh Hưng thứ 21 (1761), Quận công Trần Như Hạo bị bệnh hiểm nghèo, chữa trị lâu không khỏi, nghe danh cụ Khương Hữu Dực nên xin được chẩn trị. Sau một thời gian, Quận công khỏi bệnh. Cảm công đức của lương y, Quận công mua 1 mẫu 2 sào 8 thước đất vườn để xây dựng ngôi chùa và 3 mẫu ruộng hương hỏa để tạ ơn thầy thuốc như Quan Âm thị hiện, giao cho gia đình thầy đời đời trông nom. Đến nay hậu duệ của lương y Khương Hữu Dực vẫn giữ gìn hương khói ngôi chùa. Hàng năm, chùa lấy ngày giỗ Quan Quận, mùng 3 tháng 8 làm chính tiệc.
Ông Khương Xuân Y (bên phải) giới thiệu về chùa.
Thấy lai lịch ngôi chùa đẹp quá nên chúng tôi đã về Tây Phương, cùng tác giả Khương Duy Anh đến thăm chùa, ở sườn phía Tây núi Câu Lậu. Đường lên chùa quanh co, nhà cửa thưa thớt, tạo cảm giác như ở một góc nào đó của Đà Lạt. Rất yên tĩnh, chỉ có tiếng gió, tiếng chim dưới tầng tầng lớp lớp cây xanh, khiến khung cảnh càng thêm thanh tịnh. Bên phải chùa có ngôi miếu thờ Đức Ông cổ kính. Chùa còn giữ được lớp mái ngói rêu phong, với các đầu đao duyên dáng và hệ thống cột, cửa bức bàn đượm màu thời gian…
Ông Khương Xuân Y, hậu duệ đời thứ 7 của danh y Khương Hữu Dực từ ngôi nhà gần đó lên mở cửa chùa, mời chúng tôi vào thăm. Chùa ba gian, kiến trúc kiểu tiền đao hậu đốc, hai gian trong là Tam bảo, trên cùng là bộ tượng Tam thế, trung tâm là tượng Quan âm chuẩn đề, lớp ngoài cùng là tượng Thích Ca sơ sinh.
Chùa có ban thờ Quan Quận, không có án thờ cụ Khương Hữu Dực, ông Y chia sẻ: Từ thời các cụ lập chùa đến giờ thế nào thì chúng tôi cũng vẫn giữ nguyên như thế, không dám thay đổi. Có lẽ khi Quan Quận tậu đất, xây chùa thì cụ Khương Hữu Dực vẫn tại thế nên không có án thờ cụ.
- Gia đình ta có biết gì về sự nghiệp, lai lịch của Quan Quận không ạ?
- Chúng tôi chỉ có thông tin ghi trên bài vị và phía sau ghi về việc mua đất, xây chùa, giao cho gia đình, ngoài ra không biết gì về thân thế, sự nghiệp, quê quán của ngài.
Ông Khương Duy Anh chia sẻ: Khi viết sách về di tích của làng, chúng tôi cũng ao ước biết rõ hơn về Quan Quận nhưng ngoài bài vị thì không có manh mối nào. Tiếc thế! Tâm tư của hai vị cao niên xóm đồi Tây Phương như trao cho chúng tôi một đề tài, làm sao để làm sáng tỏ tên tuổi vị ân nhân đã tặng đất, xây ngôi chùa này.
Bài vị thờ Quan Quận làm bằng đá dày khoảng 5cm, gắn trên đế và cố định trên một ngai nhỏ sơn son, tạc hình mây cuốn có hai đầu rồng chầu vào. Bài vị chạm khắc hình mặt trời, hoa văn chạy quanh sinh động. Chữ khắc sắc nét. Chính giữa bài vị ghi: “Đặc tiến Khởi phục Đại tư mã, Quốc lão, phong tặng Đại tư đồ, Miên Quận công thần vị”. Bên phải: “Phụ quốc Thượng tướng quân, Phụ quốc công thần, Thự phủ sự chí sĩ”. Bên trái: “Trần tướng công, tự Như Hạo, đặc ban Trực Hậu, tứ thụy Đốc Quán”.
Miên Quận công là ai?
Như vậy, Miên Quận công có tên tự là Như Hạo, được ban tên là Trực Hậu, là Phụ quốc công thần, Thự phủ sự khi nghỉ hưu, lúc qua đời được ban tên thụy là Đốc Quán. Những thông tin này đã hé mở cho chúng tôi cơ hội tìm hiểu về thân thế của vị Quận công đã trân trọng tri ân người thầy thuốc nơi “hang cùng xóm vắng” này.
Tra cứu sử sách, thư tịch, chúng tôi bước đầu xác định rõ Miên Quận công húy là Trần Đình Miên, người làng Lương Phong, xã Hiệp Hòa, Bắc Ninh. Ông là con trưởng của Du Quận công Trần Đình Ngọc, dân địa phương gọi là Quận Gió, vì tên làng Lương Phong có nghĩa là Gió mát. Trong "Đại Việt sử ký tục biên" có ghi chép về hai vị.
“Ngày Kỉ Hợi (16, 30/9/1727) vì chúa (Trịnh Giang) sắp đi tuần du về phía Tây, sai các Trung sứ chia nhau đi san những chỗ hiểm, sửa đường, xây dựng hành cung nhà cửa. Bùi Nhân Hữu xây dựng ở núi Độc Tôn, Trần Đình Ngọc làm ở chùa Tây Thiên, Hoàng Nghĩa Chữ làm cung Hy Sơn, bắt phu dịch dân trong tám huyện”. Tháng sáu năm Bính Thìn (1736): “Cho Tham tụng quận công Phạm Khiêm Ích làm A bảo tán lý công thần; Du quận công Trần Đình Ngọc làm Phụ quốc công thần”.
Năm Tân Dậu, Cảnh Hưng năm thứ 2 (1741) dưới triều vua Lê Hiển Tông, chúa Trịnh Doanh. “Lúc bấy giờ giặc cướp hoành hành, nhân tâm lo sợ. Triều đình muốn đem trọng thần vỗ yên ba trấn. Bởi thế chia Sơn Nam là hai lộ thượng hạ. Sai Trịnh Hoàn, Ngô Đình Oánh, Trương Nhiêu, Nguyễn Đức Huy, chia làm Chưởng đốc. Nguyễn Quý Kính, Nguyễn Đức Bảng làm Chưởng đốc Sơn Tây. Nguyễn Đức Nhuận, Trần Đình Miên làm Chưởng đốc Kinh Bắc, đều cai quản cả việc quân dân trong hạt”.
Như vậy Trần Đình Miên là một trọng thần của triều đình. Năm sau, ông tiến đánh Nguyễn Hữu Cầu ở Đồ Sơn. Năm Cảnh Hưng thứ 4, chúa sai Thự phủ sự Trần Đình Miên đi cứu quân Lạng Sơn đang bị giặc đánh phá mạnh. Tháng 9 năm đó “cho Trần Đình Miên làm Trấn thủ Kinh Bắc, Trịnh Đạc làm Trấn thủ Hải Dương”. Sau khi dẹp yên loạn Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương, tháng 4 năm Cảnh Hưng 12 (1751) các quan văn võ dâng chúa bài khải chúc mừng việc này, trong đó có Trần Đình Miên, xếp thứ 11 trong 30 đại thần.
Lăng mộ họ Trần
Trong những năm 1730 -1737, Miên Quận công đã cho xây dựng tại quê hương khu lăng mộ gia tiên và khi tạ thế là nơi gửi xương cốt. Khu lăng mộ đá hoành tráng và tinh xảo trên diện tích 3 mẫu, với cổng có môn lâu, trên là biển đá đề Tự tại am, voi đá, ngựa đá, quan hầu văn võ hai hàng. Trung tâm là nhà đại bái, sau nhà đại bái là lăng mộ như một ngôi nhà, chia làm ba vòm. Vòm bên phải từ ngoài nhìn vào có đề hai chữ Trực Hậu viết kiểu hành thư, đây là hiệu ông được đặc ban nên hẳn là mộ của Miên Quận công.
Ở đây có văn bia Thư bút đặc tứ khắc hai bài thơ Nôm của chúa Trịnh Doanh ban cho Miên Quận công. Bia không ghi niên đại, chữ khắc chân phương, trước mỗi bài đều có lời tiểu dẫn. Cuối bia có khắc một thẻ kim bài của Chúa ban cho ông hai chữ Thưởng công. Bài thứ nhất đề năm Canh Thân (1740), Đặc úy: Khải hành mới biết sức anh hào/ Trải mấy phong sương kể xiết bao/ Trước đặt túi khôn đà địch cát/ Rày giong xe hữu há từ lao/ Suy trong trận thế bầy kỳ chính/ Hay lẽ binh nhung vận lược thao/ Hai chữ thanh bình công sớm thấy/ Tôn vinh đều hưởng phúc càng cao.
Bài thứ hai đề năm Mậu Thìn (1748). Phụng khảo trí sĩ thi: Trung cần hai chữ ổn chu tuyền/ Thành toại nay đà phỉ sở nguyền/ Sơn thủy đồ phong dầu điểm xuyết/ Kỳ anh tiệc hợp mặc mời khuyên/ Lắng vui ha lắng niềm y quốc/ Say đạo càng say cõi giáo thiền/ Mến mến hãy ghi câu ích tráng/ Lộc trời tước nước dõi miên miên. (Nguyễn Văn Phong, Nghiên cứu văn bia Bắc Giang, Luận án Tiến sĩ, Học viện KHXH, 2016)
Bài vị thờ Miên Quận công.
Bài thơ thứ nhất ca ngợi tài thao lược của người cầm quân, góp phần mang lại thanh bình cho xã tắc. Bài thứ hai nhân dịp ông về hưu đã đánh giá cuộc đời phò vua giúp nước của ông đến nay đã chu toàn, trở về vui với Thiền, với cuộc đời giản dị. Hiện nay khu lăng mộ không còn được như xưa, hậu duệ Miên Quận công cho biết, một số voi, ngựa, sấu đá đã được đưa về trưng bày tại Bảo tàng Bắc Giang, bia đá được dựng lại nhưng do đã bị kê ở cầu ao làng nên mòn hết chữ.
Hai bài thơ được in trong "Càn Nguyên ngự chế thi tập" của chúa Trịnh Doanh, trong đó có ghi “Thưởng lệ các bậc kỳ lão, gồm 18 bài ban cho các vị đại thần về hưu như Cảnh Quận công, Miên Quận công, Nguyễn Huy Nhuận”… Bài thứ hai còn được ghi ở bia chùa Vạn Phúc, xã Phật Tích, huyện Tiên Du, thác bản hiện lưu tại Viện nghiên cứu Hán Nôm.
Không chỉ có bia chùa Vạn Phúc, xã Phật Tích, mà nhiều đình chùa ở Bắc Ninh được Du Quận công và Miên Quận công đầu tư trùng tu, xây dựng, nên được dân tri ân, thờ làm hậu Thần, hậu Phật. Hiện ở chùa Chớp có tượng Du Quận công tạc trực tiếp khi ông xây dựng đình Câu; chùa Nghiêm Xá, Quế Võ cũng có bia tri ân ông; chùa Phật Tích có thờ tượng Miên Quận công tạc bằng đá… Có thể nói Du Quận công và Miên Quận công là hai vị đại thần dưới triều Lê Trịnh, có đức có tài, được triều đình trân trọng và để lại nhiều ân đức với quê hương.
Trở lại chùa Quan Quận, qua thân thế lẫy lừng của Miên Quận công, đủ biết xung quanh ông không thiếu danh y, vậy mà phải đến khi gặp lương y Khương Hữu Dực thì ông mới khỏi bệnh. Điều đó chứng tỏ y thuật cao siêu của vị danh y đất Yên Thôn xã Tây Phương này.
Nguyễn Phan Khiêm
Nguồn VNCA : https://vnca.cand.com.vn/truyen-thong/ngoi-chua-tri-an-vi-thay-thuoc-tai-gioi-i789548/