Nhà lưu niệm cụ Huỳnh Thúc Kháng.
Ngôi nhà lưu niệm cụ Huỳnh Thúc Kháng không chỉ là nơi lưu giữ những kỷ vật gắn liền với cuộc đời một chí sĩ yêu nước kiên trung, mà còn như một trang sử sống động, góp phần giáo dục truyền thống và bồi đắp lòng yêu nước cho các thế hệ hôm nay.
Một chí sĩ yêu nước, kiên trung
Nằm bên Quốc lộ 40B, giữa làng quê Tiên Cảnh (huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam cũ - nay là xã Thạnh Bình, TP Đà Nẵng), ngôi nhà lưu niệm cụ Huỳnh Thúc Kháng lặng lẽ kể câu chuyện về một bậc chí sĩ trọn đời tận hiến cho dân tộc. Từng kỷ vật, từng đường chạm khắc cổ kính nơi đây không chỉ lưu dấu lịch sử, mà còn trở thành “lớp học” sinh động, hun đúc tinh thần yêu nước cho các thế hệ hôm nay.
Từ trung tâm TP Tam Kỳ, ngược về phía Tây khoảng 35km, chúng tôi đến quê hương của cụ - xã Thạnh Bình. Ngôi nhà lưu niệm nép mình trong khu vườn rộng hơn 1.000m², thanh bình và cổ kính, lưu giữ nhiều dấu tích về cuộc đời và sự nghiệp của một nhân cách lớn: Giản dị, uy nghiêm và thấm đẫm tinh thần dân tộc.
Bằng tiến sĩ của cụ Huỳnh Thúc Kháng.
Ngôi nhà do thân sinh của cụ Huỳnh, ông Huỳnh Văn Phương, dựng từ năm 1869 theo lối kiến trúc thời Nguyễn. Công trình rộng khoảng 90m2, gồm ba gian, hai chái, với khung sườn gỗ vững chãi cùng những đường chạm trổ tinh xảo. Dù trải qua nhiều lần trùng tu và tôn tạo, ngôi nhà vẫn gần như giữ nguyên dáng vẻ ban đầu, vừa cổ kính vừa uy nghiêm, như chứng nhân thầm lặng của một dòng họ khoa bảng yêu nước.
Bước vào gian giữa, mùi gỗ trầm thoảng nhẹ, không gian thờ tự hiện ra uy nghiêm và trang trọng. Trên bàn thờ tổ tiên, những hoa văn chạm khắc tinh xảo hình con dơi ngậm chuỗi vòng, đôi rồng gỗ mít sống động như đang kể câu chuyện về một dòng tộc khoa bảng, yêu nước. Chính giữa là mục chủ khắc tên thân nhân đã khuất, phía trước là bàn thờ cụ Huỳnh Thúc Kháng - từng chi tiết đều toát lên sự trang nghiêm và tôn kính.
Theo tấm bia giới thiệu, cụ Huỳnh Thúc Kháng sinh năm 1876 tại làng Thạnh Bình, tổng Tiên Giang Thượng, huyện Hà Đông, phủ Thăng Bình (nay là xã Thạnh Bình, TP Đà Nẵng). Thuở nhỏ, cụ tên là Thước, khi đi học lấy tên Hanh, đến năm 1900 đổi tên thành Huỳnh Thúc Kháng, tự Giới Sanh, hiệu Mính Viên.
Con đường khoa cử của cụ Huỳnh rực rỡ từ rất sớm: Năm 16 tuổi, cụ thi vào trường ba, đến năm 25 tuổi (1900) đỗ cử nhân, và bốn năm sau, năm 1904, cụ đỗ tiến sĩ. Không chỉ xuất sắc trong học vấn, cụ Huỳnh còn là một trong những người đứng đầu phong trào Duy Tân ở miền Trung.
Năm 1908, khi phong trào chống sưu thuế bùng nổ ở Quảng Nam và lan rộng khắp miền Trung, cụ cùng các thân sĩ yêu nước bị thực dân Pháp bắt và đày ra Côn Đảo với án tù chung thân. Phải đến năm 1921, cụ mới được trả tự do, tiếp tục con đường cống hiến cho dân tộc.
Trở về sau thời gian bị giam cầm, cụ Huỳnh tiếp tục dấn thân cho sự nghiệp dân tộc. Năm 1926, khi Pháp cải tổ Hội đồng Tư vấn thành Viện Dân biểu Trung Kỳ, cụ ứng cử và đắc cử Viện trưởng, với ý định dùng nghị trường làm diễn đàn đấu tranh đòi cải cách dân chủ, bảo vệ quyền lợi dân tộc. Tuy nhiên, sau hai năm, nhận thấy Viện Dân biểu chỉ là cơ quan bù nhìn, phục vụ mị dân, cụ đã từ chức.
Một năm sau, năm 1927, cụ sáng lập tờ Tiếng Dân tại Huế - tờ báo Quốc ngữ đầu tiên ở miền Trung. Trong suốt 16 năm tồn tại (1927 - 1943) với 1.766 số báo, Tiếng Dân trở thành tiếng nói mạnh mẽ phản ánh khát vọng độc lập, tập hợp nhiều trí thức tiến bộ và khơi dậy tinh thần dân tộc. Tờ báo không chỉ gây ảnh hưởng lớn ở Trung Kỳ, mà còn vang vọng khắp cả nước, cho đến khi bị chính quyền đương thời buộc đình bản.
Lịch sử ghi nhận, sau Cách mạng Tháng Tám 1945, cụ Huỳnh được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Tháng 6/1946, khi Bác Hồ sang Pháp đàm phán, cụ được cử làm Quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cụ cũng là một trong những người sáng lập và giữ chức Hội trưởng Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam.
Cuối năm 1946, khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, cụ được Chính phủ Trung ương cử đi kinh lý miền Trung. Ngày 21/4/1947, vì tuổi cao sức yếu, cụ qua đời tại Quảng Ngãi. Theo di nguyện, nhân dân đưa cụ về an táng trên đỉnh núi Thiên Ấn (Quảng Ngãi). Với tài năng, đức độ và lòng yêu nước nồng nàn, người dân gần gũi gọi cụ bằng hai chữ thân thương: “Cụ Huỳnh”.
Gian thờ cụ Huỳnh Thúc Kháng tại căn nhà lưu niệm ở xã Thạnh Bình.
Những hình ảnh và kỷ vật tại nhà lưu niệm.
Nơi hun đúc tình yêu nước
Trong ngôi nhà lưu niệm ngày nay, nhiều kỷ vật vẫn được gìn giữ nguyên vẹn. Trên bàn gỗ cũ kỹ, chiếc kính, chiếc hộp đựng và chiếc đồng hồ từng đồng hành cùng cụ Huỳnh hiện lên như những chứng nhân của thời gian.
Ba bức điện cuối cùng của cụ Huỳnh Thúc Kháng gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh em binh sĩ và anh em các đảng phái tôn giáo, trước khi cụ qua đời.
Một số bản Tiếng Dân còn nguyên màu giấy ố vàng, gợi nhớ giai đoạn sục sôi của báo chí cách mạng. Bên cạnh đó, đôi guốc mộc giản dị, phiên bản từ hiện vật gốc ở Quảng Ngãi, tái hiện những bước chân không mệt mỏi của cụ trong những năm kháng chiến, minh chứng cho tinh thần kiên cường và cống hiến trọn đời của một chí sĩ yêu nước.
Giữa khu vườn rợp bóng cây, ngôi nhà gỗ vẫn lặng lẽ đứng đó, như chứng nhân của một giai đoạn lịch sử đầy biến động. Mỗi kỷ vật, mỗi trang báo, mỗi đường nét chạm khắc nơi đây không chỉ kể câu chuyện về một bậc chí sĩ, mà còn gửi gắm bài học về tinh thần bất khuất, sự liêm chính và lòng yêu nước sáng ngời.
Đến thăm nhà lưu niệm cụ Huỳnh Thúc Kháng, người ta như ngược dòng thời gian, chạm vào ký ức dân tộc, để thêm trân trọng những giá trị lịch sử và văn hóa mà tiền nhân đã để lại. Không chỉ là điểm đến văn hóa, ngôi nhà còn là “ngôi trường sống động” cho thế hệ trẻ, góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, hun đúc khát vọng cống hiến và nuôi dưỡng tinh thần dấn thân vì Tổ quốc.
Học sinh và du khách thắp hương tưởng niệm cụ Huỳnh Thúc Kháng.
Nhà lưu niệm cụ Huỳnh Thúc Kháng trở thành địa chỉ đỏ để các thế hệ học sinh đến tham quan, học tập.
Đặc biệt, nơi đây còn là địa chỉ đỏ để học sinh, sinh viên khắp cả nước tìm đến học tập, tìm hiểu về một giai đoạn lịch sử hào hùng. Mỗi chuyến tham quan không chỉ giúp các em hiểu rõ phong trào cách mạng mà cụ đã tham gia, mà còn khơi dậy niềm tự hào dân tộc, bồi đắp lòng yêu nước và ý thức trách nhiệm trong hành trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hôm nay.
Ngày 27/12/2012, Chủ tịch nước đã truy tặng Huân chương Sao Vàng, phần thưởng cao quý nhất cho cụ Huỳnh Thúc Kháng.
Hoàng Vinh