Ngôi trường cổ thay đổi thế giới

Ngôi trường cổ thay đổi thế giới
7 giờ trướcBài gốc
Nalanda có tuổi đời khoảng 1.600 năm. Ảnh: Alamy.com
Nó hoạt động từ năm 427 với tư cách học viện Phật giáo, được các nhà sử học công nhận là “trường đại học đầu tiên trên thế giới”.
Tây Thiên đời thực
Năm 645, sau 2 năm tu luyện tại Magadha (Ấn Độ), Huyền Trang (602 - 664) - nhà sư lừng danh người Trung Hoa, nguyên mẫu của nhân vật Đường Tăng trong Tây Du Ký, đã trở về Trung Quốc với đoàn chiếc xe ngựa chở 657 cuốn kinh Phật. Suốt phần đời còn lại, ông cặm cụi dịch những cuốn kinh Phật này để các đệ tử có thể đọc hiểu và phổ biến đi khắp nơi.
Trong câu chuyện kể về thời gian tu luyện ở Magadha, nhà sư Huyền Trang miêu tả có Đại Bảo Tháp tưởng niệm một trong 2 đại đệ tử của Đức Phật. Nó mang hình dạng kim tự tháp bát giác, có cầu thang lộ thiên uốn lượn từ chân lên đỉnh tháp, xung quanh là sân lát đá rộng mênh mông và nhiều tịnh xá, đền hùng vĩ.
“Toàn bộ khu vực được bao quanh bởi bức tường gạch. Cổng vào rất rộng, dẫn tới 8 sảnh khác nhau. Mỗi sảnh đều đưa tới một tịnh xá tuyệt đẹp, cao chạm mây, được trang trí lộng lẫy”, nhà sư kể. Những miêu tả này phần nào phác họa ra trung tâm học tập được thành lập vào thời Đế chế Gupta (thế kỷ IV - VI): Tịnh xá Nalanda.
Magadha (Bihar ngày nay) là một trong 16 kinh đô có trong lục địa Ấn Độ thời cổ đại. Theo các tư liệu lịch sử và câu chuyện truyền miệng, từ trước Công nguyên, Magadha đã là thánh địa của Phật giáo và Kỳ Na giáo. Nhiều truyền thuyết về Đức Phật có nhắc, Ngài từng thuyết pháp ở đây. Ngay cả Xá Lợi Phất, một trong 2 đệ tử đầu tiên của Ngài cũng chào đời và nhập niết bàn trên vùng đất này.
Đầu thế kỷ V, Pháp Hiển (337 - 422) - nhà sư Trung Quốc, đã du hành đến Ấn Độ và ở lại khoảng 10 năm. Ông có tới thăm Magadha, viết du ký nhưng không nhắc đến tịnh xá nào nên có lẽ Nalanda được xây dựng sau thời điểm này. Người sáng lập Nalanda nhiều khả năng là Hoàng đế Kumaragupta I (415 - 455). Sau ông, các đời vua Gupta kế tiếp duy trì tín ngưỡng sùng đạo Phật, cho xây dựng thêm nhiều công trình, biến Nalanda thành khu phức hợp rộng lớn.
Ngoài các cuốn kinh tiếng Phạn, nhà sư Huyền Trang còn mang về Trung Quốc thêm 150 viên xá lợi. Khi ông ở Magadha, Tịnh xá Nalanda đang dưới sự bảo trợ của Hoàng đế Harsha (590 - 657), người đóng đô ở Kannauj (Kanyakubja ngày nay). Nhà vua này đã cho xây dựng thêm nhiều tịnh xá hùng vĩ và 3 ngôi đền to đẹp, Buddha, Surya và Shiva, tuyên bố “Nalanda là sự cống hiến của một chuỗi dài các đời vua Gupta, đẹp nhất thế gian và đáng được chiêm ngưỡng hơn bất cứ công trình nào”.
Cùng với việc hoàn thiện các công trình đồ sộ cho Nalanda, Hoàng đế Harsha còn ban chiếu chỉ cấp 100 ngôi làng, hạ lệnh mỗi làng phải định ra 200 hộ làm người cung ứng nhu yếu phẩm cho Nalanda, thường là gạo, bơ và sữa. Nhờ đó, Nalanda thuận lợi trở thành nơi giảng đạo và tu luyện của 1.500 đại sư và 10.000 tăng ni.
Nhà sư Huyền Trang, người để lại nhiều tường thuật về Nalanda nhất. Ảnh: Wikipedia.org
Trường đại học đầu tiên
Nghiên cứu lịch sử và phát hiện khảo cổ thời Gupta cho thấy, Nalanda quả thực là một hệ thống tịnh xá Phật giáo đa công trình. Người ta tìm thấy nhiều con dấu, tác phẩm nghệ thuật, biểu tượng và chữ khắc liên quan đến đạo Phật tại di tích Nalanda.
Ngoài các vị vua Gupta, Nalanda còn được cả những người theo tôn giáo khác ủng hộ. Trong các di vật thời Gupta được tìm thấy, có nhiều cái khắc dấu biểu tượng của các vị thần Ấn giáo như Lakshmi, Ganesha, Shivalinga và Durga.
Nalanda có ít nhất 3 giai đoạn cực thịnh. Giai đoạn thứ nhất là dưới thời Gupta, kéo dài từ thế kỷ V - VI. Dù chưa được thành lập bao lâu, tịnh xá này đã là nơi tu luyện nổi tiếng khắp phương Đông, thu hút các tăng ni từ Tây Tạng, Trung Quốc và Trung Á bất chấp đường xa mà tới.
Giai đoạn thứ 2 là dưới thời Hoàng đế Harsha và giai đoạn thứ 3 là dưới thời Kannauj (giữa thế kỷ VII - XVIII). Theo du ký của nhà sư Huyền Trang (do các đệ tử của ông viết thay), chương trình giảng dạy chính của Nalanda là giáo lý Đại thừa và 18 tông phái Tiểu thừa, còn chương trình giảng dạy phụ là kinh Vệ Đà, ngữ pháp tiếng Phạn, y học, triết học, toán học…
Giảng sư của Nalanda là những đại sư, học giả thông tuệ nhất, còn học sư thì không giới hạn quốc tịch, tầng lớp. Thư viện của Nalanda cực lớn, có tới 9 triệu cuốn sách. “Mọi kiến thức mà chúng ta có đều bắt nguồn từ Nalanda”, các đời Đa Lai La Ma (Tây Tạng) không ngừng nhắc nhở người tu hành.
Cả giảng sư lẫn học sư của Nalanda đều ăn học ngay trong khu phức hợp tịnh xá. Nhìn tổng quát, Nalanda hệt như một kiểu “trường đại học bách khoa nội trú toàn cầu” thời trung cổ, nên mới được người đời sau công nhận như “trường đại học đầu tiên của thế giới”.
Trải qua 4 thế kỷ phát triển rực rỡ, Nalanda đào tạo ra vô số học giả xuất sắc. Những người này lại tỏa đi khắp nơi, đem giáo lý đạo Phật cũng như các kiến thức khác truyền bá đến từng ngóc ngách hành tinh. Ở lĩnh vực y học, Nalanda góp phần đưa phương pháp khám chữa Ayurveda (chủ yếu là sử dụng thảo dược và massage) phổ biến khắp Ấn Độ và lan sang các nước khác.
Ở lĩnh vực xây dựng, nó đem kiến trúc dạng đền chùa tới tận các quốc gia cách rất xa như Thái Lan, Nhật Bản… Ở lĩnh vực toán học, Nalanda là nơi đào tạo ra cha đẻ toán học Ấn Độ - Aryabhata (476 - 550), người đầu tiên xem 0 là một chữ số và mở ra “đại cách mạng tính toán”, giúp đơn giản hóa số đếm, khởi động toán đại số, giải tích…
“Nếu không có Aryabhata sáng tạo ra số 0 thì bây giờ, chúng ta cũng chẳng có máy tính”, Giáo sư Anuradha Mitra, Đại học Kolkata, khẳng định. Bên cạnh số 0, Aryabhata còn nghiên cứu ra căn bậc hai, căn bậc ba… thậm chí còn là người đầu tiên phát hiện, ánh sáng của Mặt trăng là ánh sáng phản chiếu từ Mặt trời.
Không chỉ nhận các học sư phương xa, Nalanda còn thường xuyên gửi các giảng sư xuất sắc nhất của mình đến đất nước họ để truyền bá đạo Phật và các kiến thức. Sự trao đổi giáo dục này giúp đạo Phật tỏa rộng sức ảnh hưởng, định hình tín ngưỡng trên toàn châu Á.
Thời cực thịnh, Nalanda có 1,5 nghìn giảng sư và 10 nghìn học sư. Ảnh: Alamy.com
Sụp đổ và tàn tích
Từ thế kỷ IX - XI, Nalanda duy trì vị thế tịnh xá có ảnh hưởng nhất. Các đời vua Dharmapala và Devapala nối tiếp nhau bảo trợ cho hoạt động tu luyện, truyền bá đạo Phật. Mô hình “làng chu cấp cho chùa” cũng được nhiều nơi, ví dụ như Sumatra ở Indonesia, học theo.
Tuy nhiên, bước sang thế kỷ XII, Nalanda nói riêng và các tịnh xá Phật giáo khác ở Ấn Độ nói chung đã không tránh khỏi làn sóng hủy diệt tàn bạo. Với tư tưởng “độc tôn Hồi giáo”, Tướng quân Bakhtiyar Khilji (? - 1206) của Afghanistan dẫn đội quân viễn chinh hùng mạnh nhất, tàn sát khắp Ấn Độ. Năm 1190, Khilji tới Magadha và lập tức san bằng Nalanda, đốt trụi đống đổ vỡ trong biển lửa.
Sau cuộc càn quét của Khilji, Nalanda hoang tàn rơi vào lãng quên. Mãi đến thế kỷ XIX, nó mới được giới khảo cổ học chú ý và đến thế kỷ XX thì được khai quật, trùng tu. Kết quả khai quật cho thấy, chiều dài của Nalanda 488m còn chiều rộng 244m, có 11 tịnh xá và 14 đền lớn, nhiều đình nhỏ, một lối đi rộng 30m…
Dù không phải là nhỏ, nó không đủ sức chứa hơn 1 vạn người như nhà sư Huyền Trang đã kể. Tuy nhiên, những gì được khai quật cũng có thể mới chỉ là một phần của Nalanda chứ không phải toàn diện tích. “Cuộc tấn công của Khilji đã xóa sổ Nalanda, nhưng đó không phải là lần đầu tiên hệ thống tịnh xá này bị tàn phá.
Phần tàn tích rộng 23ha được công nhận là di sản thế giới của Nalanda. Ảnh: Alamy.com
Trước đó, ít nhất Nalanda cũng bị hủy hoại 2 lần, một lần vào thế kỷ V, do người Huns và lần nữa vào thế kỷ XVIII, do Hoàng đế Gauda của Bengal”, Shankar Sharma, Giám đốc Bảo tàng Khảo cổ Nalanda, nơi trưng bày 350/13.000 cổ vật Nalanda, cho biết.
Người Huns tấn công Nalanda chỉ vì lý do cướp bóc, còn Hoàng đế Gauda thì có khả năng là vì vấn đề tôn giáo. Nhờ sự trợ giúp của các nhà vua bảo trợ đương thời, Nalanda vực dậy được và tiếp tục gánh vác vai trò giáo dục. Năm 1190, Nalanda suy sụp hoàn toàn vì tại Ấn Độ thời điểm này, Phật giáo đang trên đà suy tàn.
Năm 2010, Chính phủ Ấn Độ quyết định hồi sinh trường đại học cổ nhất thế giới bằng cách thành lập Đại học Nalanda, chỉ định là “trường đại học quốc tế có tầm quan trọng quốc gia”.
Năm 2016, Nalanda được UNESCO công nhận là di sản thế giới. Ngày nay, Nalanda là quần thể di tích trải rộng 23ha, vẫn còn các tàn tích tịnh xá, đền lớn, đền nhỏ… Đối với các tăng ni và phật tử, đây luôn là địa điểm hành hương, chiêm niệm quan trọng. Du khách tới Nalanda thường xuyên nhìn thấy các nhà sư mặc áo cà sa màu đỏ đang đi dạo xung quanh hoặc ngồi thiền.
Theo bbc và wikipedia
Ninh Thị Thơ
Nguồn GD&TĐ : https://giaoducthoidai.vn/ngoi-truong-co-thay-doi-the-gioi-post746187.html