Già Vương Văn Cưa bên trống cổ
Hồn trống, hồn bản
Dẫn chúng tôi men theo con đường nhỏ quanh co vào bản Dỗi, anh Trần Văn Lâm, Bí thư Đoàn xã Thượng Lộ trước đây, hiện là Chuyên viên Ban Xây dựng Đảng xã Khe Tre chia sẻ, “Già Cưa là người có uy tín lớn tại địa phương, am hiểu sâu sắc phong tục, tập quán của người Cơ Tu”.
Ngôi nhà nhỏ của già Cưa nép mình dưới bóng cây, khói bếp bảng lảng trong chiều muộn. Trước hiên nhà, già Cưa đang ngồi bên khúc gỗ, cặm cụi đục, đẽo, bào, gọt để hoàn thiện chiếc trống. Ở tuổi 71, từng nhịp búa, nhát đục của ông vẫn dứt khoát, chắc nịch như tiếng trống vang vọng núi rừng.
“Ngày xưa, để làm xong một cái trống phải mất cả tuần. Giờ có máy khoan hỗ trợ, không phải đục bằng tay hoàn toàn như trước nên chỉ mất vài ba ngày là xong”, già Cưa nói với nụ cười hiền.
Nếu trống của người Kinh được ghép từ nhiều thanh gỗ, thì trống của người Cơ Tu lại được đục từ gỗ nguyên khối. Gỗ làm trống được chọn lựa kỹ lưỡng, thường là gỗ mứt hoặc gỗ bàng, nhẹ, mềm, dễ tạo hình, lại bền, không nứt. Sau khi phơi khô, dù dầm mưa dãi nắng cũng không bị mối mọt hay hư hỏng. “Dùng gỗ khác thì tiếng trống không hay. Gỗ mứt, gỗ bàng cho âm thanh tròn, ấm, lại vang xa hơn”, già Cưa giải thích.
Mặt trống được bịt bằng da bò hoặc da trâu non. Người Cơ Tu chỉ chọn phần da đùi trâu ở hai chân trước vì vừa đủ độ dày, cho âm tốt. Da bò thì chỉ lấy ở phần thân để đảm bảo độ bền. Sau khi chọn, da được căng lên khung gỗ và phơi nắng cho khô tự nhiên; gặp ngày mưa thì hong bằng củi lửa. Dây mây để chằng và kéo căng hai mặt trống cũng phải chọn mây vừa độ già để bền và dai.
Già Cưa kể, trống của người Cơ Tu có 3 loại. Trống lớn gọi là cơ thu, dùng trong hội làng, lễ mừng lúa mới (cha ha rơ tơ me), lễ cúng rẫy (pơ lít), lễ mừng năm mới (pa rơ dum)... Trống trung gọi là pâr lư, trống nhỏ gọi là char gơr, thường được mang trên vai để vừa đi vừa đánh trong các buổi văn nghệ, sinh hoạt cộng đồng.
“Ngày trước, trong nhà người Cơ Tu nào cũng có trống, có chiêng treo trên vách. Mỗi lần giết bò, mổ heo hay săn được con nai, con mang ngoài rừng là trống, chiêng lại vang lên. Cả làng nghe tiếng mà kéo nhau đến, cùng ăn mừng, chia sẻ niềm vui”, già Cưa chậm rãi nhớ lại. Trong những năm tháng chiến tranh, bản làng chìm trong khói lửa, trống, chiêng cũng im tiếng. Mỗi lần sơ tán, bà con lại cẩn thận mang theo trống, chiêng, cất giấu trong rừng sâu. Sau ngày giải phóng, họ mới lặng lẽ vào rừng rước từng chiếc chiêng, chiếc trống về, treo trang trọng trong nhà sàn như treo lại âm vang của bản làng một thuở. Mỗi tiếng trống vang lên là một lần quá khứ và hiện tại giao hòa, kết nối con người với tổ tiên, với núi rừng và ký ức cộng đồng.
Truyền nghề, giữ lửa
Sinh ra trong một gia đình người Cơ Tu di cư từ Quảng Nam (cũ) ra, già Vương Văn Cưa là thế hệ thứ ba trong gia đình lớn lên ở núi rừng Nam Đông (cũ). Thuở nhỏ, ông mê mẩn khi thấy người già trong bản tỉ mỉ đục đẽo, kéo da làm trống. Nhưng học nghề không phải dễ, bởi nghề làm trống Cơ Tu, ngày xưa chỉ truyền trong dòng tộc.
Vì say tiếng trống, mê mùi gỗ, cậu bé Cưa năm nào cứ lân la học lỏm, rồi mày mò tự làm. Cái trống đầu tiên trong đời, ông mất cả tháng để đục đẽo, gọt từng thớ gỗ, chỉnh từng đường cong. Khi tiếng trống trầm vang đầu tiên cất lên trong gian nhà sàn, lòng ông cũng rộn ràng như ngày hội làng vừa đến.
Trống cổ truyền của người Cơ Tu được chế tác hoàn toàn thủ công nên độ bền rất cao. Một chiếc trống có thể sử dụng hàng chục năm; hỏng mặt trống, chỉ cần thay da là lại vang vọng như mới.
Người ở các bản làng lân cận, thậm chí tận Quảng Nam (cũ), cũng tìm đến già Cưa để đặt trống. Một bộ ba chiếc trống đủ cỡ mất nhiều thời gian chế tác, nhưng giá chỉ tầm 5 triệu đồng. “Tiền bạc không nhiều đâu, nhưng tôi vui vì giữ được nghề của cha ông, còn tiếng trống là còn hồn bản làng”, ông nói, mắt ánh lên niềm tự hào.
Để nghề làm trống cổ truyền của người Cơ Tu không mai một, hễ ai muốn học, già Cưa đều tận tình truyền dạy, chưa từng giấu nghề. Niềm vui giản dị của ông là khi thấy con trai mình, anh Vương Văn Gà, nối nghiệp cha, thành thạo từng công đoạn làm trống; hay như anh Trần Văn Xuông, sau nhiều năm gắn bó, cũng đã tự tay làm nên những chiếc trống Cơ Tu mang âm thanh núi rừng.
Ông Lê Nhữ Sửu, Nguyên Trưởng phòng Văn hóa - Khoa học và Thông tin huyện Nam Đông (nay là Phó Chủ tịch xã Nam Đông) nhận xét, già Vương Văn Cưa là người tâm huyết trong việc giữ gìn và truyền dạy các giá trị văn hóa truyền thống, phong tục tập quán của người Cơ Tu cho thế hệ trẻ. Nhờ đó nhiều nét đẹp văn hóa không bị mai một theo thời gian. “Già làng Cưa còn là người có uy tín trong cộng đồng, có khả năng vận động, tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến với bà con một cách gần gũi, hiệu quả”.
Bài, ảnh: Hà Lê