Theo thông tin từ Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Ninh, nam bệnh nhân N.V.H (66 tuổi, ở Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh) có bệnh nhân có tiền sử tăng huyết áp kéo dài nhiều năm kèm đái tháo đường type 2.
Khoảng một tuần trước khi nhập viện, bệnh nhân xuất hiện triệu chứng đau âm ỉ vùng bụng có cảm giác đau lan xuống chân với cường độ và tần suất tăng dần qua các ngày.
Bệnh nhân được gia đình đưa đến Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Ninh để nhập viện theo dõi và điều trị chuyên sâu. Kết quả chụp cắt lớp vi tính cho thấy khối phình động mạch chủ bụng đoạn dưới thận và động mạch chậu chung bên phải, thành mạch vôi hóa rải rác.
Ảnh: BVCC
Hội chẩn đa chuyên khoa đánh giá khối phình kích thước lớn có thể vỡ bất cứ lúc nào. Sau khi hội chẩn liên khoa, các bác sĩ thống nhất chỉ định điều trị bằng phương pháp đặt stent graft nội mạch - kỹ thuật xâm lấn tối thiểu, giúp loại bỏ nguy cơ vỡ túi phình mà không cần mở bụng và nhận được sự đồng thuận từ phía gia đình người bệnh.
Ca can thiệp do TTƯT. BsCKII Trần Quang Định, Trưởng khoa Phẫu thuật và Can thiệp Tim mạch thực hiện với sự hỗ trợ của chuyên gia. Ê-kíp tiến hành đặt stent graft tại vị trí khối phình động mạch chủ bụng đoạn dưới thận và 2 stent nhánh vào động mạch chậu hai bên. Stent graft được đưa vào đoạn mạch bị phình rộng tạo thành một giá đỡ vững chắc, có tác dụng như một màng bọc bảo vệ thành động mạch chủ bị tổn thương, ngăn nguy cơ vỡ khối phình. Quá trình can thiệp kéo dài gần một giờ, bệnh nhân tỉnh táo và không có cảm giác đau.
Sau can thiệp, bệnh nhân hết cảm giác đau tức vùng bụng, tỉnh táo, ăn uống và vận động nhẹ nhàng. Hiện sức khỏe bệnh nhân ổn định và được xuất viện.
Bs.CKII Trần Quang Định cho biết: “Kỹ thuật đặt stent graft nội mạch là một bước tiến quan trọng trong điều trị các bệnh lý phình động mạch chủ bụng, đặc biệt phù hợp với người bệnh lớn tuổi, nhiều bệnh nền, mổ mở nhiều nguy cơ như bệnh nhân H.
Thay vì phải mở bụng, kéo dài thời gian gây mê và hồi phục, kỹ thuật này giúp rút ngắn quá trình can thiệp, giảm mất máu, nguy cơ biến chứng thấp và thời gian nằm viện chỉ vài ngày. Đây là kỹ thuật chúng tôi đã làm chủ và triển khai thường quy tại bệnh viện trong những năm gần đây, mang lại hiệu quả điều trị rõ rệt, nhất là với bệnh nhân già yếu, cao tuổi”.
M.H (th)