Người ở lại 'làng phong' - Bài 1: Nỗi đau từ vùng đất 'chết'

Người ở lại 'làng phong' - Bài 1: Nỗi đau từ vùng đất 'chết'
2 giờ trướcBài gốc
Một góc “làng phong” nhìn từ trên cao.
Con đường từ trung tâm của thôn Tô, xã Cẩm Thạch dẫn vào “làng phong” nhỏ hẹp, hoang vắng và xa hun hút. Hai bên đường chỉ có rừng, cây và núi, ít khi thấy bóng người qua lại. Dưới chân dãy núi Làng Trắng, có một xóm nhỏ với 26 nóc nhà nằm nép mình đơn sơ, giản dị. Đó là nơi các bệnh nhân phong được chữa khỏi, ở lại lập gia đình và phát triển kinh tế. Người dân quanh vùng vẫn quen gọi nơi ấy là “làng phong”.
Khi phóng viên tới thăm, ông Mai Văn Mùi đang thập thễnh ngoài khoảnh sân nhỏ, cắt vài đọt dọc mùng chuẩn bị cho bữa cơm chiều. Đôi chân ông đã bị cắt cụt đến đầu gối, phải lắp chân giả, còn đôi tay cũng đã mất hết các ngón, co quắp, khẳng khiu. Cơ thể tật nguyền nên mọi việc với ông đều trở nên khó khăn.
Năm nay đã bước vào độ tuổi ngoài 80, ông Mùi là một trong những bệnh nhân cao tuổi nhất còn ở lại “làng phong”. Sống ở nơi này suốt nhiều thập kỷ, nhưng mỗi khi nhắc về quê hương bản quán và những năm tháng tuổi trẻ, khuôn mặt khắc khổ già nua của ông vẫn phảng phất nỗi buồn.
Ông Mai Văn Mùi chuẩn bị bữa cơm trưa.
Sinh ra ở vùng quê ven biển huyện Nga Sơn (cũ), Mai Văn Mùi từng là chàng trai khỏe mạnh, chăm chỉ việc ruộng vườn. Nhưng khi bước vào độ tuổi thanh xuân đẹp nhất đời người, trên cơ thể ông bắt đầu xuất hiện những vùng da sẫm màu, không còn cảm giác. Thế rồi, những vết loét lan rộng. Ngón chân, ngón tay rụng dần. Lúc này, gia đình mới bàng hoàng nhận ra, ông đã mắc bệnh phong. Ông trốn biệt trong buồng, không dám ra ngoài. Nhưng tiếng đồn vẫn lan rộng khắp làng trên xóm dưới. Cả gia đình ông bị người ngoài xa lánh.
Ông Mai Văn Mùi di chuyển khó khăn với đôi chân tật nguyền.
“Hàng xóm láng giềng sợ hãi. Anh em trong nhà cũng sợ, không ai dám đến gần. Tôi khổ quá chỉ muốn chết đi. Sau có người mách trên này có chỗ điều trị cho người bị phong. Tôi bèn khăn gói ra đi...”, ông Mùi chia sẻ, đôi mắt đỏ hoe khi nhìn xuống cơ thể đã bị bệnh phong tàn phá nặng nề.
Bệnh phong (dân gian còn gọi là bệnh hủi, bệnh cùi, ma phong...), trước đây từng bị xem là một trong “tứ chứng nan y”, nếu không được chạy chữa kịp thời sẽ gây nên những tổn thương khủng khiếp trên cơ thể người bệnh. Cũng bởi vậy, bệnh nhân phong thường bị người đời kỳ thị.
Năm 1967, Trại Điều dưỡng bệnh nhân phong được xây dựng trên đất làng Tô, xã Cẩm Bình cũ (nay là xã Cẩm Thạch). Từ đó cho tới hôm nay, gần 6 thập niên qua, vùng đất dưới chân dãy núi Làng Trắng trở thành chốn dung thân cho những người không may mắc phải căn bệnh quái ác này.
Nhiều thập niên trở về trước, nhận thức của người dân còn lạc hậu. Khi Trại Điều dưỡng bệnh nhân phong được xây dựng, nỗi sợ hãi bao trùm khắp các xóm làng xung quanh.
Dưới chân dãy Làng Trắng có một khe suối nhỏ. Kể từ khi các bệnh nhân phong bắt đầu xuống tắm rửa, giặt giũ, người dân phía hạ nguồn không một ai dám bén mảng lại gần con suối ấy. “Làng phong” giống như một ốc đảo, bị cô lập giữa núi rừng hoang vắng.
Trong căn nhà cấp 4 đơn sơ, ông Hà Văn Thiệp mãi không quên ký ức của những năm tháng đau buồn ấy. Lên với Trại Điều dưỡng bệnh nhân phong từ khi còn trẻ, được các y bác sĩ điều trị khỏi, ông quyết định ở lại vùng đất này sinh cơ lập nghiệp. Số phận run rủi khiến ông gặp gỡ và kết hôn với bà Bùi Thị Thành – con gái một bệnh nhân phong, rồi lần lượt sinh 6 người con. Ngày ấy, cuộc sống của cặp vợ chồng trẻ đối mặt với muôn vàn khó khăn. Căn bệnh quái ác đã để lại những di chứng nặng nề, khiến hai bàn tay ông co quắp và một bên chân bị cắt cụt. Sức lao động giảm sút, thêm một đàn con đông, khiến gia đình luôn trong tình trạng nghèo đói, thiếu trước hụt sau.
Nhưng khó khăn về kinh tế và khuyết tật thể xác không đau đớn bằng nỗi đau tinh thần.
“Vài chục năm trước, con gái thứ hai của tôi học tiểu học, vì nhiều chấy rận nên cháu phải cắt tóc ngắn. Bạn bè thấy thế liền bảo cháu bị lây bệnh phong từ bố nên rụng hết tóc rồi. Thế là không bạn học nào dám ngồi cạnh cháu. Một mình cháu phải ngồi một bàn...”. Nhắc lại kỷ niệm đau lòng, đôi mắt ông Thiệp ngân ngấn nước.
Bà Trương Thị Ái, người dân tộc Mường, quê ở huyện Bá Thước (cũ) cũng là một bệnh nhân “có thâm niên” ở “làng phong”. Dù đã ngoài 60, khuôn mặt bà vẫn còn giữ được nét duyên của thời tuổi trẻ. Tuổi đôi mươi, bà kết hôn với một chàng trai trong bản với những ước mơ giản dị về tương lai. Nhưng chưa kịp hạnh phúc, bà bỗng phát bệnh phong. Người chồng đầu gối tay ấp không chịu nổi lời dị nghị nên đã chia tay. Bà một mình lên với trại phong, rồi chọn ở lại nơi này.
Bà Trương Thị Ái.
Năm tháng trôi qua, dãy núi Làng Trắng vẫn thâm u đứng một mình...
Khe nước nhỏ dưới chân núi vẫn chảy róc rách...
Tất cả trở thành chứng nhân cho nỗi đau không lời của các bệnh nhân phong...
Nhưng, ngay cả trong những thời điểm khó khăn nhất, khi căn bệnh còn bị kỳ thị nặng nề, vẫn có những người sẵn lòng đến với “làng phong”, thắp lên hy vọng sống cho những bệnh nhân bất hạnh...
An Thư
Bài 2: Hành trình của yêu thương
Nguồn Thanh Hóa : https://vhds.baothanhhoa.vn/nguoi-o-lai-lang-phong-bai-1-noi-dau-tu-vung-dat-chet-40504.htm