Tiếng gọi non sông và ngã rẽ của cuộc đời
Sinh ra và lớn lên tại Huế, trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng, lòng yêu nước của bà Cao Thị Quế Hương đã được hun đúc từ sớm từ tấm gương của ba, một cán bộ Việt Minh năng nổ, đầy nhiệt huyết trong cao trào cách mạng tháng 8/1945. Cuộc sống đầy những khó khăn, biến động của gia đình trong khói lửa chiến tranh, cùng sự lầm than, đau khổ của đồng bào dưới ách đô hộ của thực dân ngay trên quê hương mình đã tác động sâu sắc đến Cao Thị Quế Hương.
Thời nữ sinh, bà đã theo ba mẹ lên Đà Lạt, ra Huế rồi trở lại Đà Lạt. Chính trong thời gian này, những bài giảng đầy tâm huyết của thầy cô, những áng thơ văn lay động lòng người, những trang lịch sử hào hùng của dân tộc đã bồi đắp dày dầy hơn tình yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào dân tộc và những giấc mơ, hoài bão tươi đẹp của tuổi trẻ.
Bà Cao Thị Quế Hương trao tặng kỷ vật kháng chiến cho Bảo tàng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tháng 10/2025.
Tháng 6/1967, Cao Thị Quế Hương tốt nghiệp khoa Triết, trường Đại học Sư phạm Sài Gòn. Với kết quả đó, bà có nhiều sự lựa chọn nhiệm sở công tác nhưng đã quyết định chọn Trường nữ trung học Đoàn Thị Điểm tại Cần Thơ để thực hiện ước mơ của cuộc đời mình: trở thành một cô giáo.
Tại đây, bà được phân công dạy môn Triết. Giờ dạy dày phủ kín nhưng với lòng say mê yêu nghề, mỗi bài giảng của bà đều có sự chuẩn bị kỹ lưỡng. Quan trọng hơn, bà luôn biết cách vận dụng thực tế xã hội miền Nam lúc bấy giờ vào bài giảng. Sự hăng say, chăm chú của học sinh trong mỗi tiết học là động lực thôi thúc bà không ngừng cố gắng.
Chiến tranh ở miền Nam leo thang từng ngày sau khi quân Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng. Đường phố Sài Gòn và các thành phố khác đầy lính Mỹ, dây kẽm gai và bao cát. Tiếng đại bác dội về thành phố đêm ngày, gieo rắc nỗi xót xa vào lòng cô giáo trẻ ngay cả khi đang đứng lớp.
Nhận thấy âm nhạc là sợi dây kết nối và chuyển tải hiệu quả tình yêu quê hương, đất nước cho học sinh, vậy nên cứ vào cuối buổi chiều, cô giáo Cao Thị Quế Hương lại chép lên bảng những bài hát của phong trào sinh viên, học sinh và tập cho các em hát. Cứ thế, bà âm thầm, kiên trì gieo những hạt mầm của lòng yêu nước vào những trái tim trong sáng của học trò và đã đơm hoa thơm quả ngọt.
Sau Tết Mậu Thân năm 1968, tạm xa nghề giáo, xa bục giảng và bà đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, non sông với mong muốn cháy bỏng một ngày không xa đất nước được hòa bình, thống nhất, bà sẽ lại sớm được đoàn tụ với gia đình để phụng dưỡng ba mẹ, báo đáp công sinh thành, dưỡng dục.
Có một đám cưới đặc biệt
Sau khi về căn cứ học nghị quyết, bà được tổ chức phân công về Đại học Văn khoa Sài Gòn, phụ trách phong trào sinh viên tại đây. Tháng 4/1969, bà vinh dự được kết nạp Đảng và sau đó được giao nhiệm vụ Bí thư chi bộ sinh viên Đại học Văn khoa.
Hoạt động sôi nổi trong phong trào đấu tranh của sinh viên, học sinh Sài Gòn, tình yêu đã nảy nở giữa bà và ông Nguyễn Ngọc Phương (bí danh Ba Triết). Họ đã báo cáo tổ chức và được hai gia đình đồng ý cho làm đám cưới.
Nhưng định mệnh trớ trêu, khi chỉ còn một tuần nữa là họ tổ chức đám cưới thì ngày 5/3/1970, cả bà và ông Nguyễn Ngọc Phương đều bị bắt cùng nhiều sinh viên khác. Dù bị tra tấn dã man, tất cả đều kiên trung, không khai báo bất cứ điều gì làm ảnh hưởng đến phong trào công khai bên ngoài.
Trong ký ức của bà Cao Thị Quế Hương điều khiến bà không bao giờ quên được đó là ánh mắt của ông Nguyễn Ngọc Phương nhìn bà khi mỗi lần bà tỉnh dậy trong phòng tra tấn. Ánh mắt vừa dịu dàng, yêu thương, đầy thấu cảm, động viên nhưng cũng đầy cương quyết như tiếp thêm động lực cho bà kiên cường chiến đấu vượt qua những ngày tháng tù đày gian nan. Trước áp lực mạnh mẽ từ phong trào đấu tranh của sinh viên, học sinh và nhân dân bên ngoài nhà tù, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu buộc phải trả tự do cho 10 người, trong đó có bà, còn ông Nguyễn Ngọc Phương vẫn tiếp tục bị giam giữ.
Sau khi bà ra tù, mẹ ông Phương đã lên Đà Lạt thưa chuyện với gia đình bà, chính thức nhận bà làm con dâu. Gần cuối tháng 6/1970, một đám cưới độc nhất vô nhị trong lịch sử đã diễn ra tại nhà tù Chí Hòa. Cô dâu Cao Thị Quế Hương, mang theo cặp nhẫn cưới mẹ chồng chuẩn bị để trao cho chú rể Nguyễn Ngọc Phương tại phòng thăm nuôi khiến những người chứng kiến không khỏi bùi ngùi, xúc động.
Từ khi ra ra tù, bà tiếp tục các hoạt động công khai, từ Phong trào Phụ nữ đòi quyền sống đến Ủy ban Vận động cải thiện chế độ lao tù. Để có chi phí sinh hoạt và thăm nuôi chồng, bà đã nhận vào dạy Anh văn tại trường nữ Trung học tư thục Đức Trí. Những năm 1971-1972, cuộc sống của bà là chuỗi ngày vừa tham gia hoạt động cách mạng, vừa lo kiếm sống, vừa thăm nuôi chồng ở nhà tù Chí Hòa với mong muốn sẽ có ngày vợ chồng được đoàn tụ.
Nhưng rồi tháng 1/1973, ông Nguyễn Ngọc Phương hy sinh vì những trận đòn tra tấn của kẻ thù trước sự bàng hoàng, đau đớn tột cùng của bà Quế Hương. Vành khăn trắng vẫn còn nhức nhối trong tim thì chỉ ít ngày sau, bà bị bắt lần thứ hai, chịu đựng cuộc sống tù đày gian khổ suốt nhiều tháng trời.
Trọn một lòng son sắt
Ngày 20/4/1975, chỉ 10 ngày trước khi Sài Gòn hoàn toàn giải phóng, bà đã trốn thoát khỏi trại giam và tìm về Vũng Tàu. Ngày 3/5/1975, bà trở về Sài Gòn, tìm lại đơn vị cũ và được phân công về công tác tại Hội Trí thức yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh. Tháng 4/1976, bà xung phong lên công trường Thái Mỹ, Củ Chi, vận động giới trí thức và thanh niên xung phong đi lao động, làm thủy lợi xây dựng nông trường của thành phố. Sau đó, bà trở về Đà Lạt công tác với cương vị Ủy viên Thường vụ, Hội phó rồi Hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Lâm Đồng, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Lâm Đồng cho đến khi nghỉ hưu.
Với nhiệt huyết và sự tận tụy, với bản lĩnh và kinh nghiệm của những năm tháng đã được trui rèn qua đạn bom khói lửa, dù ở cương vị công tác nào bà đều tận tâm, tận lực với công việc, không ngừng cống hiến đóng góp, xây dựng đất nước, quê hương. Bà cũng đã thực hiện được tâm nguyện của đời mình đó là về công tác gần nhà để chăm sóc bố mẹ lúc tuổi già, bóng xế. Và ngần ấy năm liệt sĩ Nguyễn Ngọc Phương hy sinh, bà vẫn ở vậy thờ chồng, giữ trọn vẹn mối tình son sắt.
Cuộc đời của bà Cao Thị Quế Hương là một bản hòa tấu của nhiều cung bậc, từ ước mơ lãng mạn trở thành một cô giáo đến lý tưởng cách mạng cháy bỏng, từ sự kiên trung nơi lao tù đến nỗi đau tột cùng của sự hy sinh. Bà đã tạm gác lại hạnh phúc cá nhân, vượt qua nỗi mất mát to lớn để cống hiến trọn vẹn tuổi thanh xuân cho ngày đất nước thống nhất và tiếp tục vun đắp khối đại đoàn kết dân tộc trên chính mảnh đất quê hương.
Tấm gương sáng ngời của bà không chỉ là câu chuyện của quá khứ mà còn là bài học sống động, sâu sắc truyền cảm hứng mạnh mẽ cho các thế hệ hôm nay và mai sau.
Thu Hoàn