Hơn hai mươi năm trôi qua, mỗi lần trở lại Đức Hòa, câu chuyện chị Ấm lại được khơi dậy, lại sững sờ nghe chị kể thêm những tình tiết mới, những khó khăn mới chị phải đối mặt trong cuộc sống thường nhựt. Người phụ nữ sống bằng nghề đươn đệm trong căn nhà rách nát, giữa cánh đồng hoang vu ở xã Đức Lập Thượng là một phần câu chuyện trong quyển sách “Chuyện năm 1968”, tiểu thuyết “Đêm Sài Gòn không ngủ”, trường ca “Hoa của nước”… Làm sao không viết về chị, người phụ nữ bình thường, trong một khoảnh khắc đã quyết định làm một điều phi thường.
Đi tìm câu trả lời cho độc giả “Chuyện năm 1968”
Một ngày tháng 11 năm 2024 tôi nhận được điện thoại của một người lạ. Anh tự giới thiệu: “Tôi là Lê Ngọc Tú. Tôi có mua quyển “Chuyện năm 1968” ngoài Đường Sách. Tôi tới Bảo Tàng Phụ Nữ Nam bộ hỏi thăm thì được biết cô đã không còn làm ở đó nữa. Người ta cho tôi có số điện thoại của cô”. Ông hỏi địa chỉ và không hơn 10 phút, ông xuất hiện trước ngôi nhà của tôi. Người đàn ông trước mặt tôi không còn trẻ nữa, gầy gò, thỉnh thoảng ôm mặt ho lên từng tràng. Ông Tú bày tỏ thắc mắc: “Tại sao chị Mười Thắng hồi đó là bí thư chi bộ xã Đức Lập nhờ chị Ấm đưa đoàn quân thoát hiểm mà hòa bình không làm giấy báo công cho chị ấy, để chị bị lãng quên như vậy?!”. Lặng đi một lúc ông nói: “Tôi có ý định này, mình về Đức Lập Thượng, Đức Hòa thăm chị Ấm. Nếu chị Ấm còn sống, tôi sẽ giúp chị ấy xây căn nhà tình nghĩa. Nếu chị Ấm đã mất, tôi sẽ giúp gia đình xây ngôi mộ đàng hoàng cho chị…”.
Tôi cùng cựu biệt động Sài Gòn, doanh nhân Lê Ngọc Tú về Đức Hòa thăm chị Nguyễn Thị Ấm. Nhìn nơi ở của chị, tôi không khỏi chạnh lòng. Qua khe cửa hẹp, tôi nhìn ra cánh đồng năn lát ngoài biền xa. Câu chuyện năm 1968 vùng ven đô Đức Hòa lại hiện về. Chị kể, rành mạch: “Lúc chị Mười Thắng - Bí thư xã cùng vài cán bộ đưa 374 chiến sĩ tập trung trước sân nhà tôi giao nhiệm vụ: “Tìm mọi cách đưa bộ đội thoát khỏi chỗ chết này”, tôi không thể không chấp hành mệnh lệnh của chị. Trước đó chị cũng đã nhờ vài người nhưng họ từ chối vì cuộc dẫn đường này rất nguy hiểm, đối mặt vối sống chết. Tôi nhận lời vì nghĩ mấy anh em bộ đội từ miền Bắc vào đây chiến đấu. Họ còn quá trẻ. Họ cũng có vợ con, gia đình. Mình không thể để các anh co cụm một chỗ để chết. Lúc đó tôi có ba đứa con nhỏ, lại mang bầu 4 tháng, lỡ mình có bề gì… Chợt nhớ lời chị Thắng: “Đoàn quân này từ Ba Thu về đến đây bị địch phát hiện, từ hàng ngàn người giờ chỉ còn lại 374 chiến sĩ. Sinh mạng của anh em đang cậy vào em đó!”. Vậy là không nghĩ ngợi gì nữa. Nếu hy sinh, một mình tôi hy sinh cùng… đứa nhỏ trong bụng. Còn nếu mình mở đường máu ra đi, nếu thành công, sẽ cứu sống được 374 chiến sĩ! Thật ra đánh giặc không cần đông mà cần cái trí”.
Chị Nguyễn Thị Ấm (chống gậy) đưa đoàn khách về nơi ở của mình…
Sau phút sững sờ vì câu nói về “cái trí” của người chị quê kiểng trước mặt mình, ông Lê Ngọc Tú trầm ngâm hỏi: “Làm cách nào chị đưa đoàn quân thoát hiểm khi trên trời dưới đất địch đổ quân chận diệt?”. Chị Ấm thật thà nói: “Đưa quân đi trong hoàn cảnh ấy là chuyện khó nhưng vượt qua lòng mình càng khó hơn. Ai mà không sợ chết chứ. Người mẹ nào không thương con. Thật khó khăn khi tôi gỡ tay mấy đứa nhỏ ra để đi làm nhiệm vụ. Tôi nói với người chỉ huy: “Nếu tin tôi, hãy cho tôi cái quyền một chút. Tôi ra lệnh: Địa hình không được cụm lại mà dãn ra, ngụy trang làm “hàng cây”, bổ thành hàng ba đi theo tôi!”. Đơn giản chỉ vậy. Trong hoàn cảnh địch càn quét địa hình vùng ven từ mọi phía, cả máy bay rọi pháo sáng soi đường, nếu đoàn quân tập trung thành cụm lúc di chuyển sẽ dễ “lòi lưng”, rất dễ bị tiêu diệt. Trên đường tôi bị dính miểng M79 của địch vào ngực. Một anh hy sinh. Tôi tìm chỗ chôn tạm anh rồi tiếp tục di chuyển. Bì bõm vượt biền hơn 50 cây số; nói thiệt tôi được năn, lác, bàng che chở; có đoạn sình lầy ngập đến thắt lưng. Có lúc mệt lã muốc ngất đi, tôi cố gượng dậy, bởi chỉ cần nằm xuống là nằm luôn… Khi đưa được đoàn quân về đến Hố Bò, tôi quay trở lại. Người chỉ huy đưa cho tôi tờ giấy ghi công, nói: “Chị giữ kỹ tờ giấy này, chờ ngày hòa bình. Công của chị với cách mạng lớn lắm”. Từ Hố Bò, tôi quay ngược trở về, tôi còn bị quân mình bắt vì bị nghi là gián điệp, do lúc đi, tôi dẫn đầu đoàn quân. Lúc trở về, mình ở cuối đoàn quân, mấy anh chiến sĩ đâu biết mình làm giao liên đưa họ thoát hiểm. Anh bộ đội nói lời xin lỗi rồi nhắc tôi nhớ cất kỹ tờ giấy. Giọng anh bộ đội miền Bắc tôi nghe không quen, chỉ đoán là mình được tự do, được trở về. Nghĩ đến 3 đứa nhỏ dưới tăng-xê, lòng tôi như bị lửa đốt. May mà mấy đứa nhỏ không sao. Vừa lúc đó giặc rầm rập kéo đến. Tôi nhanh trí xổ đầu tóc ra, lấy tờ giấy ghi công bỏ vào miệng nuốt. Chúng sục sạo khắp người tôi, nạt nộ hỏi: “Đêm qua bà đi đâu? Làm giao liên đưa đường cho V.C hả?!”. Không tìm thấy gì, tên phiên dịch kéo bọn lính Mỹ bỏ đi…”.
Ông Lê Ngọc Tú (bìa phải) cùng Đặng Công Tâm (Sáu Học) - bìa trái cùng tác giả về xã Đức Lập Thượng, Đức Hòa, Long An thăm chị Nguyễn Thị Ấm ngày 17.11.2024
“Công lao chị lớn như vậy sao chị Mười Thắng không xác nhận cho chị để được hưởng chế độ người có công? Trong số 374 chiến sĩ năm ấy có ai quay trở lại thăm chị?!”. Ông Lê Ngọc Tú vẫn chưa nguôi thắc mắc. Chị ngậm ngùi: “Sau đó thì chị Mười Thắng cũng bị bắt. Rồi hòa bình, bao nhiêu là chuyện phải lo. Ở Đức Hòa, ai cũng có công lao kháng chiến, hòa bình là tốt rồi, chẳng ai nghĩ đến chuyện báo công”. Sực nhớ ra điều gì, chị Ấm vạch chiếu lấy ra tờ giấy xác nhận. Tôi chăm chú đọc:
“Tôi là Lương Văn Hải, sinh năm 194…, quê Liêm Cần, Thanh Liêm, Hà Nam. Trú quán: Ấp Nhà Thính A, xã Đông Thới, Cái Nước, Cà Mau, Ngày nhập ngũ bộ đội: tháng 1 năm 1960. Cấp bậc chức vụ quân đội: Trung úy, đại đội trưởng. Đơn vị chính phục vụ bộ đội: C3 KI CT. Chiến dịch Mậu Thân năm 1968 đơn vị C3 tăng cường cho sư đoàn 9 (CT9). Đến năm 1969 để bị thương chuyển về miền Bắc an dưỡng công tác. Phục viên năm 1976 về địa phương.
… Tôi xin làm giấy xác nhận cho chị Nguyễn Thị Ấm ở số nhà 110, ấp Đức Ngãi I, xã Đức Lập Thượng, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An là người đã có thành tích, công lao đưa đường cho bộ đội sư đoàn 9 năm 1968 băng qua biền vượt qua vòng vây của kẻ thù đế quốc Mỹ.
Qua đọc báo Phụ nữ Chủ Nhựt số 2 ngày 12.1.2003 của tác giả Trầm Hương đăng tôi được biết chị Nguyễn Thị Ấm chưa được hưởng chính sách của cách mạng. Nay tôi xin xác nhận cho chị Ấm là người được sự phân công của chị Mười thắng năm 1968 hội trưởng Phụ nữ Giải phóng bí thơ xã Đức Lập đã dẫn đường cho bộ đội Sư đoàn 9.
Tôi xin cam đoan với các cấp chính quyền, các cấp chính sách của Đảng, Nhà nước, quân đội là tờ xác nhận nhân chứng cho chị Ấm là đúng, nếu có sai trái xác minh mà không đúng tôi xin chịu pháp luật của Nhà nước.
Người xác nhận
Ký tên
Lương Văn Hải”
Nhờ tờ giấy xác nhận này mà chị Nguyễn Thị Ấm hiện nay được hưởng tiền có công và người cao tuổi mỗi tháng gần 2 triệu đồng. Ông Lê Ngọc Tú nhìn quanh nơi chị ở, hỏi: “Chúng tôi có thể giúp gì được cho chị?”. Chị Ấm rưng rưng: “Tôi cần cái nhà tử tế để ở. Nhà này cửa hẹp muốn ra ngoài cực lắm. Có lần tôi té xuống ao may mà có người vớt được”. Ông Huỳnh Văn Bắc - Bí thư chi bộ ấp thở dài cho hoàn cảnh của chị Ấm: “Đời chỉ rất khổ. Có chồng thì chồng say sỉn, đánh đập, có lần quăng chỉ vào mẻ un. Con 11 đứa, còn chín, chẳng ở được với đứa nào. Có lần chỉ đi ra sông tự tử. Bà con biết được kéo lên bờ đưa về!”. Ông Lê Ngọc Tú hỏi: “Nếu xây nhà thì chị có đất xây không?”. Chị Ấm khựng người, ứa nước mắt. Ông Bắc nói: “Chị ấy giờ không có miếng đất cặm dùi. Xin đất công thì rất khó. Mà có xin được thì cũng…”. Hóa ra, chuyện giúp chị Ấm có được ngôi nhà tình nghĩa lại là bài toán khó. Cái khó không phải tiền xây nhà mà là không có đất để xây. Tuổi chị đã cao, cái chị cần thiết thực hơn là có tiền để sống qua ngày. Suốt buổi trưa hôm đó, ông Lê Ngọc Tú cùng ông trưởng ấp và cựu chiến binh ấp bàn cách tốt cho chị Ấm. Cuối cùng mọi người thống nhất phương án tìm thuê nhà trọ cho chị Ấm. Ông trưởng ấp sẽ đưa chị Ấm ra ngân hàng mở tài khoản. Doanh nhân Lê Ngọc Tú sẽ giữ cho chị số tiền xây nhà tình nghĩa. Mỗi tháng ông sẽ chuyển cho chị số tiền nhất định hỗ trợ chị thuê nhà và sinh sống. Nếu chị mất, ông sẽ dành một khoản giúp chị chuyện hậu sự và xây mồ cho chị. Trước mắt ông tặng chị 10 triệu đồng để chi dùng những việc cần thiết.
Khi tôi đọc cho chị nghe đoạn thơ viết về chị trên cánh đồng năn lát, chị lặng đi, nước mắt ầng ậng chảy. Chị nghẹn ngào nắm tay ông Lê Ngọc Tú, nắm tay tôi: “Mấy anh bộ đội năm xưa chưa ai về đây thăm tôi. Chỉ có lá thư chú lính Lương Văn Hải gởi về địa phương xác nhận chuyện năm xưa. Chắc nhiều chú đã hy sinh, có chú được trở về nhưng cuộc sống chắc khó khăn nên không về thăm tôi được. Tôi vẫn mong mọi người còn sống. Nhận được thư chú Hải, tôi mừng lắm, cũng thật biết ơn chú vì dù chưa trở lại thăm tôi lần nào nhưng lá thư xác nhận của chú giúp tôi có khoản tiền nhỏ để sống những ngày cuối đời! Hôm nay có cậu Tú, cậu Tâm về đây thăm, lo cuộc sống cho tôi, tôi nghẹn lời, không biết nói gì hơn… ”. Chị không nói thêm được điều gì lúc chia tay, chỉ để nước mắt thay lời…
Bí ẩn người tìm về cánh đồng năn lác
Với tôi, ông Lê Ngọc Tú đến giờ vẫn là điều bí ẩn, dù trên các trang báo, ông và vợ là nhà tài trợ cho những hồ bơi ở Bình Định, Lâm Đồng, Dak Nông… Ông hỗ trợ xây nhiều nhà tình nghĩa cho những gia đình chính sách, xây trường nội trú cho trẻ em dân tộc ở Lai Châu… Khi đọc những dòng về chị Ấm, ông trắc ẩn, bức xúc, tìm về; mong được làm một điều gì đó cho người phụ nữ giàu lòng hy sinh, dũng cảm, xứng đáng được hưởng cuộc sống tốt đẹp. Ông tâm sự: “Quê tôi ở Điện Bàn, Đà Nẵng. 5 tuổi cha đưa tôi cùng gia đình vô Sài Gòn. Ông đạp xích lô kiếm sống vừa làm cách mạng. Có một người cha như vậy thì anh em tôi cùng tham gia đội vũ trang liên quận là chuyện dễ hiểu. Rồi tôi bị bắt, bị đưa đi các nhà tù, rồi bị đày ra Côn Đảo. Tôi được trao trả sau hiệp định Paris… Năm 1990, tôi rời cơ quan Nhà nước, ra ngoài làm ăn. Giờ các con tôi đã trưởng thành. Tôi giao cơ ngơi cho các con, giữ lại một phần để sống độc lập, làm những điều cần phải làm. Chuyện phụng dưỡng suốt đời cho chị Nguyễn Thị Ấm làm một trong những điều cần phải làm. Thôi, cô đừng hỏi nữa, tôi không thích chuyện mình làm rất bình thường, bé nhỏ lại phô trương rầm rộ. Tôi ngại chuyện đó quá!”.
Đó là nguyên nhân mà người đản ông không còn trẻ nữa, bị ảnh hưởng di chứng những ngón đòn tra tấn đến dập phổi, thi thoảng cất lên những tràng ho xé ruột tìm về thăm cánh đồng năn nát.
Trầm Hương