Người xưa với tết Trung thu

Người xưa với tết Trung thu
2 giờ trướcBài gốc
Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, tết Trung thu đã có từ thời xa xưa, được in trên mặt trống đồng Ngọc Lũ, hay trên văn bia chùa Long Đọi Sơn, tỉnh Hà Nam (cũ) lập năm 1121, thời nhà Lý đã mô tả: “Trung thu cảnh đẹp, muôn việc rảnh rang, với lòng hiếu thành mà dọn cỗ bàn, cùng lễ lạt bày cúng dâng hoàng khảo”. Tết Trung thu được chính thức tổ chức ở kinh thành Thăng Long với các hội đua thuyền, múa rối nước và rước đèn.
Đến thời Lê - Trịnh, tết Trung thu đã được tổ chức cực kỳ xa hoa trong phủ Chúa. Triều Nguyễn (1802 - 1945) tiếp tục duy trì lễ Tết này như một điển lễ chính thống của quốc gia.
“Đại Nam thực lục” của Quốc sử quán triều Nguyễn, ghi chép: “Ngày rằm tháng Giêng (Thượng nguyên), rằm tháng 7 (Hạ nguyên), rằm tháng 10 (Trung nguyên), mùng 7 tháng 7 (Thất tịch), rằm tháng 8 (Trung thu), mùng 9 tháng 9 (Trùng dương) và ngày Đông chí (22 hoặc 23 tháng 12 dương lịch) người xưa cũng có cúng lễ, nhưng do tục nước ta thật thà chất phác nên chưa cử hành được hết. Do đó, vua Minh Mạng sai Bộ Lễ tham bác xưa nay, châm chước kiến nghị”. Như vậy, tết Trung thu đã là một tục lệ được vua Minh Mạng đặt làm điển lễ của đất nước.
Trong sách “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ”, phần Tục biên ghi lại các quy định về việc tế ở các đại tự: “Năm Tự Đức thứ 13 (1860), tại điện Long An, lễ Trung thu là một trong 7 tiết, với lễ vật là 1 mâm hào soạn hạng nhất, 2 mâm ngọc, 1 mâm trân tu. Đến năm Thành Thái thứ nhất (1889), quy định lễ phẩm cần thiết cho mỗi lễ ở mỗi sở, không chỉ tế tại điện Long An mà còn mở rộng ra ở các miếu, điện lớn hơn như là Triệu Miếu, Hưng Miếu, Thái Miếu, Điện Phụng tiên, Sùng Ân, Hòa Khiêm...”. Như vậy, triều đình phong kiến nhà Nguyễn đã có những quy định khá chặt chẽ về tổ chức tết Trung thu.
Cho đến nay, nhiều đình làng, lăng miếu ở Quảng Ngãi vẫn duy trì nghi lễ “Xuân thu nhị kỳ”, trong đó dịp tết Trung thu là “Tế thu”. Tế xuân là tế lễ cầu an (lễ kỳ yên) cho mưa thuận gió hòa, dân an vật thịnh. Tế thu để tạ ơn thần linh đã phù hộ những gì đã cầu mong. Người ta còn gọi lễ tế thu là lễ “hoàn nguyện”, cáo yết thần linh về những công việc của dân làng, để thần linh gia ân hộ trì. Phẩm vật dâng lên thần linh ở đình, miếu trong dịp tế thu có bánh ít, bánh ú, bánh nổ, hoa quả, trầu rượu, hương đèn.
Tổ chức cúng tế do ban tế tự của đình, miếu tiến hành, vị chủ bái sẽ đại diện nhân dân trong làng tế cáo với thần linh về công việc của làng, xóm. Sau đó, ban tế tự và giúp việc ngồi lại với nhau ăn bánh ngọt, uống trà, rượu. Trước đây, tại một số đình, miếu còn mời đoàn hát bội ở tỉnh Bình Định (cũ) về biểu diễn phục vụ thần linh, nhất là ở các làng ven biển, nơi có nhiều ghe thuyền đánh bắt cá, làm ăn phát đạt nên họ nguyện lo phần chi phí đó.
Đối với các gia đình, cửa hàng, công ty... cứ đến trung tuần lễ tết Trung thu thì chuẩn bị mâm lễ vật có hoa quả, chè xôi, trầu rượu, bánh ngọt, vàng mã... để tế cáo với tổ tiên, ông bà những công việc đã làm, cầu nguyện tổ tiên phù hộ cho gia đình bình an, con cháu thảo hiền. Sau lễ cúng thì các thành viên trong gia đình vây quần, ăn bánh ngọt, uống trà, chia sẻ niềm vui đoàn tụ. Đặc biệt, ngày tết Trung thu có nhiều đoàn múa lân đi khắp xóm làng, vào từng nhà múa để cầu nguyện cho gia chủ làm ăn phát tài, phát lộc và được gia chủ tặng tiền hoặc quà bánh. Trẻ em là đối tượng được mong đợi nhất trong dịp tết Trung thu.
Tết Trung thu ở Quảng Ngãi là nét văn hóa gắn liền với tiến trình lịch sử vùng đất Quảng Ngãi. Dù trải qua bao thăng trầm, tết Trung thu vẫn giữ được sức sống bền bỉ, lan tỏa trong đời sống cộng đồng từ nông thôn đến đô thị.
VÕ MINH TUẤN
Nguồn Quảng Ngãi : https://baoquangngai.vn/nguoi-xua-voi-tet-trung-thu-59635.htm