Vùng đất Gia Miêu ngoại Trang, huyện Tống Sơn xưa, nay thuộc xã Hà Long, là quê hương của tướng quân Nguyễn Hoằng Dụ.
Quê ở Gia Miêu ngoại trang, Nguyễn Hoằng Dụ là dòng dõi Nguyễn Công Duẩn - khai quốc công thần nhà Lê. Ông nội Nguyễn Hoằng Dụ là Nguyễn Đức Trung cũng là một quan đại thần trong triều đình nhà Lê, từng có công đưa vua Lê Thánh Tông lên ngôi... Dòng họ Nguyễn ở Gia Miêu trong lịch sử là một gia tộc lớn mạnh.
Sinh ra trong gia đình danh gia vọng tộc, từ nhỏ Nguyễn Hoằng Dụ đã được giáo dục, rèn dũa nghiêm khắc. Tư chất thông minh, nhanh nhẹn, Nguyễn Hoằng Dụ không chỉ thông hiểu chữ nghĩa, kinh sử mà còn giỏi binh pháp, võ nghệ, dù tuổi còn trẻ song được nhà vua tin quý.
Bấy giờ, vua Lê Túc Tông thông minh, tài hoa nhưng bạc mệnh, lên ngôi mới được nửa năm thì qua đời. Vua mất khi tuổi còn trẻ, chưa có con nối dõi nên Lê Tuấn lên ngôi, tức vua Lê Uy Mục. Uy Mục đế được biết đến là vị vua tàn bạo trong lịch sử phong kiến dân tộc. Sau khi lên ngôi, vua Uy Mục giết hại vô số người thân tín và các quan lại không cùng phe cánh. Sự tàn bạo của Uy Mục khiến quan lại trong triều bất bình, người dân oán thán. Việc phế truất vua Lê Uy Mục là điều tất yếu.
Năm Kỷ Tỵ (1509), Nghĩa Quận công Nguyễn Văn Lang cùng con trai Nguyễn Hoằng Dụ chiêu tập quân sĩ ở Thanh Hóa, lập doanh trại ở thành Tây Đô (tức Thành Nhà Hồ) phò giúp Lê Oanh (tức vua Lê Tương Dực). Sau khi lật đổ vua Lê Uy Mục, Lê Tương Dực lên ngôi đã phong thưởng cho tướng sĩ có công. Trong đó, Nguyễn Hoằng Dụ do có công lớn nên được phong An (Yên) Hòa hầu. Sau khi cha qua đời, Nguyễn Hoằng Dụ kế nghiệp nắm giữ binh quyền, thường xuyên mang quân đi đánh dẹp phản loạn.
Vua Lê Tương Dực sau một thời gian ở ngôi cũng sa đà vào tửu sắc, ăn chơi sa đọa, hưởng lạc khiến quần thần chán ghét. Vì thế, Trịnh Duy Sản đã cùng với một số quan trong triều lập mưu giết chết, lập vua mới. Theo sử sách, khi biết tin vua Lê Tương Dực bị sát hại, Nguyễn Hoằng Dụ đang đóng quân giữ bến Bồ Đề không khỏi bất bình. Ông biết, việc giết hại, phế lập vua tùy tiện sẽ gây nên sự bất ổn. Tuy nhiên, vì đại sự nên ông đành nín nhịn. “Hoằng Dụ bảo thuộc tướng, Duy Sản tự ý giết vua này lập vua khác, tội đại nghịch ấy không thể tha, nhưng hiện giờ giặc Cảo đang ngụy xưng đế hiệu, làm loạn, bọn ta ơn vua lộc nước, là bề tôi nhà Lê, trước hết phải giết giặc Cảo, tôn phò vua mới, rồi mới hỏi tội Duy Sản sau cũng chưa muộn” (sách Địa chí huyện Hà Trung).
Vua Lê Chiêu Tông lên ngôi, loạn Trần Cảo vẫn là mối lo cần được giải quyết. Nhà vua sai các tướng Duy Sản, Hoằng Dụ, Văn Lự chia thành các ngả tiến đánh Trần Cảo. Duy Sản đi đường Thiên Quan, bằng đường thủy, theo sông Hoàng Long đến Gián Khẩu, theo sông Đáy đến Ứng Thiên. Hoằng Dụ đi đường Trường Yên, theo sông Vân (sông Vân Sàng) đến sông Châu Cầu mà tiến, Văn Lự và Trịnh Tuy đem quân thủy bộ nhằm hướng Đông Đô tiến phát... Nguyễn Hoằng Dụ đem quân hăng hái tiến lên đánh thẳng vào cửa Đại Hưng. Duy Sản cũng thúc quân đánh nhau to ở bến Thái Cực và bến Đông Hà. Quân Trần Cảo phải bỏ thành Đông Đô, chạy lên Kinh Bắc, sông Như Nguyệt trở thành ranh giới để quân nhà Lê tiếp tục cuộc chiến đánh dẹp loạn Trần Cảo.
Sau chiến công, An Hòa hầu Nguyễn Hoằng Dụ được phong Trừng Quốc công. Tuy nhiên sau đó, cũng bởi việc luận công ban thưởng mà họ Trịnh và họ Nguyễn xảy ra nhiều hiềm khích, đụng độ, Nguyễn Hoằng Dụ bỏ Đông Đô, dẫn quân về đất Tống Sơn xứ Thanh.
Thấy An Hòa hầu Nguyễn Hoằng Dụ chạy về Thanh Hóa, tướng Trần Chân (con nuôi Trịnh Duy Sản) tâu với vua để đem quân thủy bộ vào Thanh Hóa đánh nhằm thu lại binh quyền. Trước tình thế ấy, Nguyễn Hoằng Dụ đành phải bỏ Tống Sơn lui về Thuần Hựu (được cho là thuộc xã Hậu Lộc ngày nay). Nhằm ép Nguyễn Hoằng Dụ phải hàng phục, quân triều đình đã cho đốt phá thành lũy họ Nguyễn ở đất Tống Sơn, đến mồ mả của người cha đã khuất là Nguyễn Văn Lang cũng bị đào xới... Tuy nhiên, Nguyễn Hoằng Dụ kiên quyết không hàng phục khiến quân triều đình sau một thời gian gây sức ép đành phải rút về Đông Đô.
Ở đất Tống Sơn, quân của Nguyễn Hoằng Dụ chủ yếu là tướng sĩ người Thanh Hóa, trong đó người huyện Tống Sơn chiếm phần nhiều. Mấy năm liền bị quân triều đình gây sức ép, không đủ lương thảo khiến quân sĩ giảm dần. Để vượt qua giai đoạn khó khăn, chờ thời cơ, Nguyễn Hoằng Dụ phải cho quân sĩ vỡ đất hoang làm ruộng, tự cung cấp lương thảo.
Triều đình nhà Lê bấy giờ đã thực sự suy yếu, liên tục xảy ra nhiều cuộc binh biến tranh giành quyền lực, phế lập vua. “Mạc Đăng Dung khuyên vua rời hành tại về Bảo Châu. Trịnh Tuy cùng bọn Nguyễn Sĩ thông đồng với bọn Nguyễn Kính mưu tôn lập em của Tĩnh Ty công là Lê Bảng làm vua, đổi niên hiệu là Đại Đức. Được nửa năm, Tuy và Kính lại phế bỏ Lê Bảng lập Lê Do, đổi niên hiệu Thiên Hiến, đặt hành điện ở Từ Liêm, chia đặt quan chức thành một triều đình mới” (sách Danh nhân Thanh Hóa).
Trước tình thế nguy cấp, vua Lê Chiêu Tông ở đất Bảo Châu phải sai người về Tống Sơn dụ bảo Nguyễn Hoằng Dụ ra cứu viện. Giữa thời buổi loạn lạc, dù chán ghét việc tranh giành quyền lực song thấy các nhóm lợi ích phế lập vua mà không lường hậu họa, là dũng tướng trung thành với nhà Lê, ông không khỏi đau đáu lo lắng việc cơ nghiệp họ Lê sẽ rơi vào tay kẻ khác. Vì thế, ông đành phải xuất quân tiến đánh bọn Nguyễn Kính. Tuy nhiên thực tế, do khó khăn, thiếu lương thảo trong nhiều năm nên quân của Nguyễn Hoằng Dụ đã giảm nhiều. Lực lượng ít trong khi phải chiến đấu với đại quân của bọn Nguyễn Kính mạnh hơn rất nhiều. Sau giao tranh, chênh lệch tương quan lực lượng buộc Nguyễn Hoằng Dụ phải thu quân về Thanh Hóa.
Trừng Quốc công Nguyễn Hoằng Dụ được thờ tại Khu di tích lăng miếu Triệu Tường trên đất Gia Miêu.
Ông nói với thuộc tướng: “Cá mạnh vì vây, tướng mạnh vì quân. Quân ta ít nên không thể nói là mạnh được. Tuy nhiên tại sao Vũ Xuyên hầu (tức Mạc Đăng Dung) lại án binh? Nếu Vũ Xuyên hầu cùng hăng hái tiến binh, quân ta dẫu ít cũng có thể chống cự được. Thuộc tướng Hoàng Kim nói: Vũ Xuyên hầu giết các đại thần để chặt vây cánh nhà vua, và không muốn đánh quân phản loạn nhằm thu phục làm tay chân cho mình. Ông ấy rồi sẽ đi xa...”.
Về lại Thanh Hóa, lo lắng cho cơ nghiệp nhà Lê, buồn chán trước tình cảnh đất nước, năm 1518 Nguyễn Hoằng Dụ lâm bệnh và qua đời. Từ đây, binh quyền ông gây dựng được trao cho người con trai đầu là Nguyễn Kim - người khai mở sự nghiệp Trung hưng nhà Lê.
Khi vương triều nhà Nguyễn được lập dựng, vua Gia Long đã cho lập miếu thờ Trừng Quốc công Nguyễn Hoằng Dụ trong khu lăng miếu Triệu Tường.
Ông Nguyễn Hữu Thoại, hậu duệ dòng họ Nguyễn ở đất Gia Miêu xưa, nay thuộc xã Hà Long, tự hào cho biết: “Họ Nguyễn ở đất Gia Miêu, từ cụ Nguyễn Công Duẩn là khai quốc công thần đến về sau là các chúa, vua Nguyễn luôn có những nhân vật xuất chúng, tài năng, trong số đó có cụ Nguyễn Hoằng Dụ. Thời gian trôi qua, lịch sử khép lại song tên tuổi, công trạng của tiền nhân vẫn luôn được sử sách ghi chép, hậu thế nhắc nhớ”.
Bài viết có tham khảo, sử dụng nội dung trong các sách: Danh nhân Thanh Hóa; Địa chí huyện Hà Trung, Nxb Khoa học xã hội, 2005.
Bài và ảnh: Khánh Lộc