Anh đi từ báo sang văn. Anh viết văn để đăng báo theo yêu cầu tuyên truyền từng đợt “đột xuất” do Ðảng lãnh đạo, chỉ đạo. Chúng ta đọc chưa nhiều tác phẩm của anh, phần lớn chỉ nhớ bài “Mối tình năm cũ” và bài thơ “Chiều Xóm Huế”. Hai tác phẩm này ăn sâu vào lòng người không cưỡng được. Những năm sanh tiền, anh cũng tự đọc thuộc lòng trong các cuộc họp, các lớp học và lạ lùng là anh đọc ngay cả trong những cuộc mít tinh có hàng ngàn người dự, tất cả đứng im phăng phắc nghe anh đọc “Mối tình năm cũ”.
Ðại biểu chụp ảnh lưu niệm cùng người thân Anh hùng, Nhà báo Nguyễn Mai nhân lễ khánh thành và trao tặng Nhà Ðồng đội. Ảnh: PHÚ HỮU
Nhưng lần này, tôi nói vài đặc điểm riêng của anh, nhà báo, nhà văn mà ta yêu mến. Tôi về Văn nghệ Khu, cùng các anh Út Triều, em Khởi (vệ sĩ anh Út Triều) chèo xuồng từ Kinh 17 lên tận rừng đước Năm Căn, Rạch Láng, Thị Tường, thăm “Tòa báo Cà Mau” và Nguyễn Mai. Gặp anh, tôi thích lắm. Anh là “hiệp sĩ” đúng nghĩa nhất, vì giữa đường dễ gặp bất bình mà tha.
Anh gọi tôi là “Già Bá” và bình về thơ cho tôi nghe. Kế đến, anh nói về anh - đó là lúc anh làm công tác nghiên cứu, ở một mình giữa rừng đước uy nghi cao lớn Mũi Ông Lục. Ðàn rái cá, ban đầu chỉ có hai con đi ăn gần chòi anh, chúng chống chân trước dòm thật lâu, rồi biến mất. Nào ngờ lúc sau chúng dắt nhau lại cả bầy năm, bảy chục con, cũng ở cách cự ly vài tầm, im lặng và chăm chú nhìn anh không chớp mắt. Anh ở một mình “để nghiên cứu tài liệu” lâu quá, buồn. Gặp loài rái cá đến thăm anh cũng mừng, nhưng ngặt chúng không biết tiếng người. Làm sao trò chuyện với chúng được. Anh nghĩ, thôi thì ta múa cho chúng xem. Áo quần đang giặt phơi, nên muốn đứng dậy múa, anh phải lấy khúc vải mưa xanh quấn quanh người cho lịch sự. Anh nói với chúng bằng tiếng người:
- Xin lỗi tụi mầy nghe, tao chỉ quấn miếng cao su này là biểu diễn nghen!
Ðó rồi anh múa may đủ kiểu, miệng anh phát ra âm thanh nhạc khúc “Li li bai bai” để múa cho đúng điệu:
- “Rề pha la, la sí la pha rề mi phá.
Rề pha la, la sí la phá rề phá mi...”.
Hết bài này, anh lại vừa múa vừa hát bài “Cô gái Phù Tang” - Lời hát êm ái tuyệt vời: “Mà rồi ngày mai, bóng em nơi đâu, cho lòng anh đớn đau sầu... Ngày ấy xa cách, trôi theo bóng mây bơ vơ, cho lòng anh luống mong chờ...”. Rồi đến bài “Con tàu không bến”: “Nhấp nhô con tàu, kìa tít mù khơi”... Lúc còn trẻ, anh múa hơn một giờ từ điệu ba lê sang Tây Nguyên, rồi múa Hải quân Liên Xô, Trung Quốc, dân ca Phần Lan... anh vẫn chưa mệt, nhưng đám rái cá thấy cũng vừa đủ, nó rút đi êm. Từ đó vài hôm nó lại thăm anh một vài lần...
Còn một chuyện nữa: Anh rủ tôi ra cây bàng đại thụ mọc lâu năm bên ngôi miếu cũ, gạch đã đóng rong. Anh giăng võng cho tôi nằm, còn anh ngồi viết. Bỗng vỏ lãi ai đó chạy ngang, nước ùa lên, rồi khi vỏ lãi chạy qua nước rút xuống, chiếc xuồng anh bị nước giựt ra, trôi giữa kinh. Anh vừa kéo xuồng mình vô bến thì một vỏ lãi khác của tư thương chạy tới, dồn nước lên, lúc vỏ lãi chạy qua nước rút xuống, kéo xuồng anh ra giữa rạch lần thứ hai. Anh giận quá, bẻ trái bình bát mé rạch chọi theo và hét lớn:
- Tao chọi cho mầy chết! Cho mầy chết!
Nhưng thực tế là mấy trái bình bát anh chọi có tới đâu và có trúng ai đâu! Thấy anh hồn nhiên như vậy, tôi nghĩ: “Ðây là một nghệ sĩ thứ thiệt!”.
Nữ phóng viên Ngọc Tám có bà con với Nguyễn Mai, cùng công tác chung Tòa báo Cà Mau, cho biết: “Nguyễn Mai vừa viết phục vụ trước mắt, nhưng còn ghi chép kỹ lưỡng những sự tích chiến tranh Nhân dân miền Nam để sau này làm tiểu thuyết”...
Nhận xét này chính xác, nếu như ngày đó anh không hy sinh trong trận chống càn ở Cái Rắn. Bằng khẩu carbine, anh chặn đứng cả cánh quân hung hãn của giặc để bảo vệ Nhân dân và đồng đội của mình. Nguyễn Mai hy sinh như một anh hùng vệ quốc. Ðó là “bài thơ” sau cùng anh viết lên bằng máu đỏ thay mực xanh, bất hủ./.
Nguyễn Bá