Nguyên Phó Chánh án TAND Tối cao Tưởng Duy Lượng 'bật mí' nghề phán xử

Nguyên Phó Chánh án TAND Tối cao Tưởng Duy Lượng 'bật mí' nghề phán xử
13 giờ trướcBài gốc
Nguyên Phó Chánh án TAND Tối cao Tưởng Duy Lượng là một trong những tác giả “best seller” sách chuyên khảo dành cho nghề luật. Sau gần 40 năm trong nghề, ông Tưởng Duy Lượng đã xuất bản trên mười cuốn sách chuyên khảo được nối bản, tái bản nhiều lần, có cuốn tái bản tới lần thứ 6 nhưng vẫn chưa dừng lại.
Chỉ ít ngày tới, sau hơn 10 năm nghỉ hưu, ông sẽ ra mắt độc giả cuốn hồi ký “Chuyện nghề phán xử”. Pháp Luật TP.HCM đã có cuộc trò chuyện với ông Tưởng Duy Lượng về cuốn sách rất được trông đợi này.
Nguyên Phó Chánh án TAND Tối cao Tưởng Duy Lượng. Ảnh: NVCC
Ký ức về những vụ án đặc biệt
. Phóng viên: Ông ấp ủ ý định viết và xuất bản hồi ký từ khi nào, thưa ông?
+ Nguyên Phó Chánh án TAND Tối cao Tưởng Duy Lượng: Ý định xuất bản cuốn hồi ký này đến bất chợt thôi.
Khi là Thẩm phán TAND tỉnh Bình Trị Thiên những năm 1980, mỗi năm tôi làm chủ tọa xét xử tới hơn trăm vụ án. Nếu tính cả những vụ ngồi “cánh gà” với tư cách là thành viên Hội đồng xét xử thì khoảng ba trăm vụ án các loại trong một năm. Gần 9 năm làm thẩm phán Tòa phúc thẩm TAND Tối cao, tôi cũng đã tham gia giải quyết hàng ngàn vụ án các loại.
Trong giai đoạn làm Thẩm phán TAND tỉnh hay Thẩm phán tòa Phúc thẩm TAND Tối cao, tôi hiếm khi hủy bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm. Không ít trường hợp tôi tự đi, nếu bận việc, tôi cử thư ký đi hay ủy thác thu thập thêm tài liệu, chứng cứ trong các vụ án về dân sự.
Những vụ án mà tôi làm chủ tọa, nếu thuận buồm xuôi gió thì chỉ nửa tháng hoặc tháng sau là không còn nhớ gì nữa, do quá nhiều. Cũng phải thôi, cái kho lưu trữ trong đầu phải biết tự thải loại.
Do không có ý định viết hồi ký nên dù nhiều vụ việc có tình tiết, sự kiện phải xử lý rất thú vị nhưng liên quan đến chứng cứ, tài liệu, không ghi chép lại, không lưu trữ không còn nhớ được chính xác nên không thể viết ra.
Giờ đây, tôi chỉ còn nhớ lại những trường hợp đặc biệt hoặc rất đặc biệt, song cũng chỉ nhớ về các sự kiện chứ không còn nhớ nội dung vụ án, tên đương sự. Phần nhiều những kỷ niệm còn lưu giữ trong ký ức là những kỹ năng nghề nghiệp khi đi thu thập tài liệu, chứng cứ hoặc kỹ năng xử lý tình huống trước khi xét xử hay tại phiên tòa.
. Trong gần 40 năm làm nghề, câu chuyện nào, vụ án nào khiến ông ấn tượng nhất?
+ Mỗi vụ án được viết trong hồi ký có những kỷ niệm lý thú, ấn tượng khác nhau nhưng tôi muốn nói về một vụ án.
Trong vụ này, bị cáo là một nông dân, nhiều lần không nộp sản phẩm theo nghĩa vụ, đã bị thu hồi một phần ruộng. Năm ấy cũng vậy, bị cáo không tự giác thực hiện nghĩa vụ, chính quyền địa phương, hợp tác xã đã thành lập một tổ công tác chuyên đi đôn đốc thu sản phẩm.
Vốn đã có mâu thuẫn âm ỉ, căng thẳng từ lâu, hôm tổ công tác đến nhà, bị cáo vác súng nhắm vào tổ công tác siết cò làm bị thương 3 người. Bị cáo bị truy tố về tội giết người với nhiều tình tiết tăng nặng. Tòa sơ thẩm xử phạt với mức hình phạt cao nhất là tử hình.
Tôi được phân công làm chủ tọa phiên tòa xử phúc thẩm vụ án này. Nghiên cứu hồ sơ vụ án, tôi nhận thấy tòa án cấp sơ thẩm đã xử đúng tội danh, áp dụng đúng điều luật, các tình tiết tăng nặng. Duy chỉ có tình tiết giảm nhẹ là tôi có cách nhìn khác với cấp sơ thẩm một chút.
Tôi cho rằng cần nhìn nhận cho đúng những thiếu sót của chính quyền cơ sở và hợp tác xã khi đi thu hồi sản phẩm của xã viên theo nghĩa vụ. Từ đó, tôi nhận định dù bị cáo phạm tội với hai tình tiết tăng nặng, nhưng may mà hậu quả chết người chưa xảy ra. Cùng với tình tiết giảm nhẹ là thiếu sót của cơ sở trong quá trình xử lý (thu bớt ruộng…) khiến bị cáo với nhận thức chưa đúng, bức xúc nên đã manh động. Quá trình điều tra, xét xử bị cáo khai báo thành khẩn, nhận ra sai lầm của mình. Do đó, tôi cho rằng cần giảm án cho bị cáo, nếu nghiêm khắc cũng chỉ xử bị cáo với mức án tù chung thân.
Tuy nhiên, tôi và hai thành viên còn lại của Hội đồng xét xử có quan điểm khác nhau về vụ án này. Do không thống nhất được, chúng tôi báo cáo Chánh tòa Tòa phúc thẩm TAND Tối cao tại Hà Nội. Chánh tòa kết luận y án sơ thẩm.
Thấy vậy tôi nói: Nếu lãnh đạo tòa yêu cầu với tư cách Đảng viên phải chấp hành thì tôi sẽ chấp hành, nhưng tôi vẫn bảo lưu quan điểm nếu diễn biến phiên tòa không có gì mới so với hồ sơ. Sau một lúc suy nghĩ, Chánh tòa nói "ra phiên tòa tùy tình hình Hội đồng quyết định".
. Vụ án đã khép lại thế nào, thưa ông?
+ Tôi đã tuyên bản án thế nào, vụ án kết thúc ra sao thì xin mời khi sách phát hành các bạn tìm đọc sẽ rõ (cười).
Tôi chỉ muốn nói thêm rằng từ vụ này có thêm minh chứng về việc có hay không “án bỏ túi” xôn xao một thời. Án “bỏ túi” hay “không bỏ túi” phụ thuộc vào bản lĩnh Thẩm phán và có trách nhiệm của một vài chánh án địa phương, đồng thời cũng có thể chứa đựng yếu tố cá nhân.
Vụ án cũng làm sáng tỏ một điều mà người ngoài hệ thống Tòa án đôi khi hiểu không đúng về báo cáo án, cứ nghĩ rằng Thẩm phán hay Hội đồng xét xử mất quyền độc lập khi xét xử…
Sau khi xét xử vụ án này, tôi còn viết một bài báo gửi báo Nông nghiệp Việt Nam. Báo đăng và gửi báo biếu tác giả, tờ báo biếu này tôi đã cho Đức Hiển, phóng viên báo Pháp luật TP.HCM (nay là Phó Tổng Biên tập Thường trực báo Pháp Luật TP.HCM), để Hiển làm tư liệu viết về án tử hình.
Về vị sếp "khó tìm được người thứ hai ở Việt Nam"
.Được biết trong cuốn hồi ký "Chuyện nghề phán xử", ông có bài viết về cố Chánh án TAND Tối cao Trịnh Hồng Dương. Vì sao trong rất nhiều vị sếp, ông lại chọn viết về ông Trịnh Hồng Dương?
+ Tôi không chỉ viết về anh Dương mà viết về tất cả các Chánh án từ địa phương đến trung ương tôi từng có thời gian làm việc chung. Từ đôi ba kỷ niệm trong công việc với các anh, tôi khắc họa chân dung các Chánh án gắn với biểu tượng tòa án là cán cân công lý.
Với cố Chánh án Trịnh Hồng Dương, anh Dương làm Chánh án TAND Tối cao một nhiệm kỳ, từ năm 1997 đến năm 2002. Anh có bằng Tiến sỹ Luật học và tôi nghĩ anh là một trong số những người thực sự có quyền tự hào về học vị của mình. Anh là người tư duy tốt, sắc sảo về chuyên môn, bao giờ cũng xuất phát từ thực tiễn. Trong cuộc sống, anh rất liêm khiết và vô cùng giản dị.
Có lẽ ít người có thể biết được bữa trưa đạm bạc của Chánh án TAND Tối cao được mang từ nhà đến cơ quan, chỉ với cặp lồng cơm đơn giản. Bà con lối xóm không hiếm lần nhìn thấy anh quét dọn quanh nhà.
Với riêng tôi, có lẽ sự khác biệt của anh với các Chánh án khác, là phẩm chất khoa học của anh nổi trội hơn, đã lấn át cả yêu cầu ẩn dấu mang tính chính trị - dù ai “ngồi” ở ghế đó luôn được mặc định là “chính khách”.
Tôi không có ý định đưa ra định nghĩa hay giải nghĩa từ “chính khách”. Nhưng có lẽ nhiều người, trong đó có tôi, khi nghĩ đến từ “chính khách” là gắn với sự đánh bóng bản thân, là hình thức... Tóm lại, với những tính từ không được hay ho.
Anh Dương không bao giờ là “chính khách” theo nghĩa nói trên. Tôi còn nhớ hai câu phát biểu ở cơ quan khi anh nhận chức Chánh án. Một trong hai câu đó là, anh tự nhận anh là người “khẩu xà tâm Phật”. Suốt nhiệm kỳ anh làm Chánh án, tôi nghiệm thấy câu này anh nói đúng. Trong mối quan hệ với cán bộ, ngoài tính hòa đồng, nói năng, tranh luận thoải mái, không câu nệ quan cách, đôi khi anh có vẻ ác khẩu nhưng không ác trong hành động. Anh sống rất gần gũi.
Có lần phát biểu trước Quốc hội, anh nói “trong dân sự, có vụ xử thế nào cũng được”, nhưng khi báo trích dẫn đã bỏ đi hai chữ “có vụ” thì đã sai lệch một trời, một vực. Làm dân sự mấy chục năm, tôi khẳng định câu anh nói (chứ không phải như câu báo viết) là hoàn toàn đúng…
Trong thời gian anh Trịnh Hồng Dương là Chánh án, tôi có nhiều dịp báo cáo trực tiếp với anh về án tử. Cảm nhận của tôi về anh là “ở Việt Nam khó tìm được người Chánh án thứ hai như thế”.
Tôi nhận thấy anh Dương, không chỉ giỏi về chuyên môn mà luôn hành động theo phương châm: pháp lý là tối thượng. Theo thiển nghĩ của tôi, làm được như thế mới là chỗ dựa cho những người nghèo, người yếu thế trong xã hội, những người rất cần sự chở che của công lý.
Giờ anh cũng đã đi xa, khi anh còn làm việc, tôi chưa bao giờ bày tỏ công khai, giờ viết những dòng này để bày tỏ lòng tôn kính một người lãnh đạo giản dị, công tâm, luôn coi trọng thượng tôn pháp luật, như một nén tâm nhang gửi tới anh.
.Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện này!
Cuốn “Chuyện nghề phán xử” có độ dài gần 500 trang, gồm 9 chương:
Chương 1: Quê hương- gia đình và tuổi thơ
Chương 2: Chọn nghề hay nghề chọn
Chương 3: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị
Chương 4: Tòa án nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên
Chương 5: Tòa án nhân dân tối cao – một hành trình mới
Chương 6: Kỷ niệm với các Chánh án
Chương 7: Nghề tay trái
Chương 8: Nghỉ hưu làm gì
Chương 9: Tâm linh hay ngẫu nhiên
THU NGUYỆT- BÙI TRANG
Nguồn PLO : https://plo.vn/video/nguyen-pho-chanh-an-tand-toi-cao-tuong-duy-luong-bat-mi-nghe-phan-xu-post853531.html