Nguyên tắc sử dụng kết quả xét nghiệm khi liên thông giữa các cơ sở khám, chữa bệnh

Nguyên tắc sử dụng kết quả xét nghiệm khi liên thông giữa các cơ sở khám, chữa bệnh
3 giờ trướcBài gốc
Dự thảo này nhằm chuẩn hóa chất lượng và tính pháp lý của các kết quả xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý và điều trị người bệnh khi chuyển cơ sở y tế trên phạm vi toàn quốc.
Theo Bộ Y tế, chỉ cần giảm 1% số lượt xét nghiệm trùng lặp, mỗi năm sẽ có khoảng 4,75 triệu lượt xét nghiệm không cần thực hiện lại.
Theo dự thảo, các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh sẽ tự đánh giá và công khai chất lượng xét nghiệm, đồng thời cơ quan quản lý chuyên môn công bố đạt chất lượng từ mức 1 trở lên theo Quyết định số 2429/QĐ-BYT ngày 12/6/2017 về Tiêu chí đánh giá mức chất lượng phòng xét nghiệm y học.
Nguyên tắc công nhận kết quả xét nghiệm giữa các cơ sở y tế được quy định rõ: các phòng xét nghiệm đạt cùng mức chất lượng sẽ công nhận kết quả lẫn nhau, trong khi phòng xét nghiệm đạt mức chất lượng thấp hơn sẽ công nhận kết quả của phòng xét nghiệm đạt mức cao hơn.
Đối với các phòng xét nghiệm đạt tiêu chuẩn ISO 15189, việc liên thông áp dụng cho các kỹ thuật xét nghiệm nằm trong danh mục được công nhận tương ứng.
Quyết định sử dụng kết quả xét nghiệm liên thông hay chỉ định xét nghiệm lại tùy thuộc vào tình trạng bệnh lý và diễn biến lâm sàng của người bệnh, do bác sĩ khám và điều trị quyết định.
Về kết quả điện quang, dự thảo nhấn mạnh giá trị pháp lý của hình ảnh và báo cáo chẩn đoán hình ảnh. Theo đó, kết quả điện quang, bao gồm dữ liệu số, kết quả mô tả và kết luận, được coi là một phần của hồ sơ bệnh án khi được thực hiện tại cơ sở y tế có giấy phép, trong phạm vi chuyên môn, có chữ ký và tên bác sĩ thực hiện, bác sĩ chẩn đoán (bản giấy) hoặc chữ ký số/xác thực điện tử (bản điện tử).
Khi chuyển người bệnh giữa các cơ sở, kết quả điện quang có thể được sử dụng để tham khảo và làm cơ sở điều trị, không bắt buộc thực hiện lại nếu đảm bảo chất lượng và tính pháp lý.
Dữ liệu hình ảnh y khoa phải còn nguyên vẹn, rõ ràng, đầy đủ chuỗi/xung (CT, MRI) hoặc đủ thì (DSA), được lưu trữ ở định dạng chuẩn quốc tế DICOM, kèm phần mềm đọc hoặc tích hợp trong hệ thống PACS. Khi kết nối PACS-PACS giữa các bệnh viện, dữ liệu phải có thông tin người bệnh, mã số định danh và thời gian chụp.
Cơ sở chuyển kết quả điện quang chịu trách nhiệm gửi kèm phiếu kết quả, dữ liệu ảnh điện tử và hồ sơ bệnh án, đảm bảo thông tin người bệnh trùng khớp và không được chỉnh sửa hay cắt xén dữ liệu hình ảnh.
Cơ sở tiếp nhận kết quả điện quang có quyền sử dụng lại kết quả để chẩn đoán và điều trị nếu đạt yêu cầu, đồng thời được phép chỉ định chụp lại khi cần.
Trường hợp cần chụp lại bao gồm: thay đổi lâm sàng, kết quả cận lâm sàng không phù hợp với giai đoạn chụp trước, thời gian từ lúc chụp đến tiếp nhận quá lâu, chất lượng hình ảnh kém hoặc không đầy đủ chuỗi cần thiết, hoặc nghi ngờ sai lệch thông tin người bệnh.
Theo Bộ Y tế, chỉ cần giảm 1% số lượt xét nghiệm trùng lặp, mỗi năm sẽ có khoảng 4,75 triệu lượt xét nghiệm không cần thực hiện lại.
Với mức giá trung bình khoảng 50.000 đồng cho mỗi xét nghiệm, việc các bệnh viện công nhận kết quả xét nghiệm của nhau giúp tiết kiệm hơn 237 tỷ đồng mỗi năm.
TS. Nguyễn Ngô Quang, Cục trưởng Cục Khoa học Công nghệ và Đào tạo (Bộ Y tế) cho biết, từ năm 2018 đã bắt đầu liên thông kết quả xét nghiệm giữa các bệnh viện hạng đặc biệt và hạng I, năm 2020 mở rộng liên thông trong cùng địa bàn tỉnh, thành phố, và đến năm 2025 sẽ thực hiện liên thông trên toàn quốc. Tuy nhiên, hiện mới có khoảng 10% phòng xét nghiệm được chuẩn hóa, đây là rào cản lớn cho việc liên thông kết quả.
Được biết thời gian qua có tình trạng lạm dụng xét nghiệm, chụp chiếu trong khám chữa bệnh, Dù hiện chưa có thống kê chính xác về tỉ lệ lạm dụng xét nghiệm. Thế nhưng trong thực tế thực hành lâm sàng, các bác sĩ vẫn ghi nhận tình trạng lạm dụng xét nghiệm để tầm soát, chẩn đoán ung thư tại một số cơ sở y tế.
Ví dụ những xét nghiệm liên quan tới dấu ấn sinh học của ung thư như CEA, CA 15-3, CA19-9..., nhiều nơi cho người bình thường làm hàng loạt trong khi những chất này không có giá trị về mặt chẩn đoán trong hầu hết các loại bệnh ung thư.
Những chất này chỉ có giá trị trong một số tình huống, giúp ích cho việc theo dõi bệnh. Còn khi thực hiện những xét nghiệm này và thấy các chỉ số hơi tăng so với bình thường, có khi do các bệnh lý lành tính mà đánh giá người đó bị ung thư sẽ làm người đi thực hiện xét nghiệm thấy hoang mang, lo lắng, lãng phí tiền bạc.
Ngoài ra, hiện có nhiều cơ sở y tế khám sức khỏe tổng quát xây dựng những gói khám có một số bất cập, người dưới 30 tuổi nhưng lại được tư vấn mua gói khám sức khỏe có khám đo mật độ loãng xương - loại dịch vụ chỉ cần đo cho những người lớn tuổi hoặc có những bệnh lý gì đó.
Hoặc nhiều cô gái trẻ đi khám tầm soát ung thư vú đã được một số cơ sở y tế tự động chụp nhũ ảnh chụp tuyến vú mà không biết chụp nhũ ảnh cho những cô gái trẻ này không mang lại giá trị bằng siêu âm. Chỉ những phụ nữ ngoài 40 tuổi, mật độ tuyến vú không còn dày nữa mới cần chụp nhũ ảnh.
Hiện nay cũng đang nổi lên một vấn đề mới là tầm soát phát hiện sớm bệnh ung thư bằng gene, tức là lấy máu sau đó đi xét nghiệm để coi có tế bào ung thư trong cơ thể hay không.
Một số cơ sở y tế đã quảng cáo đây là phương tiện rất tốt để tầm soát phát hiện sớm ung thư, nhưng về mặt chính thống, những khuyến cáo của những tổ chức uy tín, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) thì tới thời điểm này xét nghiệm máu để tầm soát phát hiện sớm ung thư chưa được xem là phương tiện để tầm soát đại trà.
Xét nghiệm về gene chỉ ứng dụng chủ yếu trong điều trị cũng như đánh giá các yếu tố di truyền của một số loại ung thư, từ đó khuyến cáo bệnh nhân và thân nhân bệnh nhân và đưa ra những giải pháp theo dõi phù hợp.
D.Ngân
Nguồn Đầu Tư : https://baodautu.vn/nguyen-tac-su-dung-ket-qua-xet-nghiem-khi-lien-thong-giua-cac-co-so-kham-chua-benh-d438002.html