Nợ xấu phân hóa
Ghi nhận từ báo cáo tài chính quý III cho thấy, trong khi một số nhà băng có tỷ lệ nợ xấu gia tăng và phải tăng mạnh trích lập dự phòng, nhiều nhà băng khác lại cho thấy dấu hiệu cải thiện rõ rệt, nhờ chiến lược kiểm soát rủi ro sớm và đẩy mạnh xử lý, thu hồi nợ.
Tại VietABank, dư nợ xấu cuối quý III đạt 1.556 tỷ đồng, tăng thêm 465 tỷ đồng, tương ứng tăng 42,6% so với đầu năm. Trong đó, nợ nghi ngờ gần như gấp đôi, từ 558 tỷ đồng lên hơn 1.052 tỷ đồng.
Tỷ lệ nợ xấu tăng từ 1,37% lên 1,79% vào cuối tháng 9, dù trước đó từng giảm xuống 1,1% cuối tháng 6. Chất lượng tài sản suy giảm khiến NH phải mạnh tay trích lập dự phòng, với chi phí dự phòng rủi ro tín dụng lũy kế 9 tháng tăng 43,5% so với cùng kỳ, đạt 254 tỷ đồng.
Tình trạng tương tự cũng diễn ra ở PGBank khi tổng nợ xấu tăng 61% so với đầu năm, lên hơn 1.708 tỷ đồng, kéo tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ tăng từ 2,57% lên 3,85%.
Tại SaigonBank, nợ cần chú ý (nhóm 2) tăng thêm 110 tỷ đồng, từ mức 1.096 tỷ đồng cuối năm 2024 lên 1.206 tỷ đồng vào cuối tháng 9. Nợ nghi ngờ (nhóm 4) tăng từ 96 tỷ đồng lên 111 tỷ đồng và nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5) cũng tăng từ 400 tỷ lên 472 tỷ đồng trong khi dư nợ từ đầu năm đến nay lại giảm từ 21.623 tỷ đồng xuống 20.295 tỷ đồng.
Trong khi đó, một số NH lại cho thấy tín hiệu tích cực về chất lượng tài sản. VPBank có bước chuyển đáng chú ý khi tỷ lệ nợ xấu đến ngày 30-9 giảm còn 3,5%, từ mức trên 4% hồi đầu năm.
ACB tiếp tục nằm trong nhóm có tỷ lệ nợ xấu thấp nhất hệ thống, ở mức 1,12% cuối quý III, giảm từ 1,51% đầu năm, với tỷ lệ bao phủ nợ xấu trên 80%. Nam A Bank cũng ghi nhận tỷ lệ nợ xấu giảm từ 2,85% xuống 2,53%, tỷ lệ bao phủ nợ xấu tăng từ 39% lên gần 46%. ABBank đạt kết quả tích cực khi dư nợ xấu giảm 23%, còn 2.830 tỷ đồng, đưa tỷ lệ nợ xấu từ 3,74% xuống 2,63%, nhờ từ thu hồi nợ khó đòi tăng 21% so với cùng kỳ.
Agribank tiếp tục là điểm sáng khi tỷ lệ nợ xấu nội bảng giảm 0,39% so với đầu năm, xuống còn 1,19% tính đến 30-9. Tương tự, Vietcombank, BIDV, VietinBank cũng tiếp tục duy trì nợ xấu thấp và ổn định quanh mức 1%.
Theo thống kê của VDSC, đến cuối quý III, nợ xấu nội bảng toàn ngành tăng thêm khoảng 7.000 tỷ đồng so với quý trước, lên mức 274.000 tỷ đồng, tương ứng tỷ lệ nợ xấu 2,01%.
“Tuy nhiên, diễn biến này không đáng lo ngại khi nợ xấu mới hình thành tiếp tục giảm xuống còn 28.000 tỷ đồng, trong khi các NH chủ động thu hồi và xử lý rủi ro đạt khoảng 21.000 tỷ đồng, thấp hơn lượng nợ xấu phát sinh. Bên cạnh đó, các NH tiếp tục tăng cường trích lập dự phòng cụ thể với tổng giá trị khoảng 34.000 tỷ đồng, giúp tỷ lệ bao phủ nợ xấu toàn ngành cải thiện nhẹ lên 96%, so với mức 91% của quý trước”, VDSC nhận định.
Kỳ vọng hành lang pháp lý mới
Ở góc nhìn rộng hơn, các chuyên gia của FiinRatings cho rằng tỷ lệ nợ có vấn đề của toàn hệ thống đang giảm dần trong giai đoạn 2024 và nửa đầu 2025, sau khi đạt đỉnh năm 2023.
Số liệu cụ thể là nợ xấu còn khoảng 1,9% trong nửa đầu 2025, giảm từ 2,2% cùng kỳ 2024. Nợ cần chú ý (nhóm 2) giảm từ 1,9% xuống 1,3%, phản ánh số lượng nợ tiềm tàng đang thu hẹp. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu đối với nợ cần chú ý tăng từ 46% lên 53%, cho thấy các NH đã trích lập dự phòng sớm hơn. Và theo quan sát, các NH ngày càng dựa nhiều vào hoạt động xóa nợ và thu hồi nợ, thay vì chỉ tăng mạnh dự phòng.
Song ông Nguyễn Quang Thuân, Chủ tịch điều hành FiinGroup và FiinRatings, cũng lưu ý khi các chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ hết hiệu lực, một số khoản vay có thể chuyển nhóm thành nợ cần chú ý hoặc nợ xấu. Rủi ro này tập trung cao hơn ở NHTMCP quy mô nhỏ, có bộ đệm vốn mỏng.
“Việc triển khai chuẩn IFRS 9 từ năm 2025 với các NH niêm yết cũng sẽ tạo áp lực không nhỏ, do yêu cầu ước tính tổn thất dự kiến cao hơn và công bố thông tin minh bạch hơn. Những NH có năng lực quản trị rủi ro tốt sẽ thích ứng thuận lợi, trong khi các NH yếu hơn có thể phải tăng mạnh trích lập dự phòng, ảnh hưởng đến lợi nhuận ngắn hạn”, ông Nguyễn Quang Thuân phân tích.
Ở góc độ chính sách, hiện nay hành lang pháp lý mới là việc luật hóa Nghị quyết 42 trong Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi 2025) có hiệu lực từ ngày 15-10 được xem là cú hích giúp việc xử lý nợ xấu thuận lợi hơn.
Đại diện VAMC cho biết khi Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi và nghị định hướng dẫn có hiệu lực, VAMC sẽ có cơ sở pháp lý đầy đủ để thu giữ và xử lý tài sản bảo đảm. Trước đây, nhiều tài sản gặp khó trong quá trình xử lý do khách hàng chây ỳ hoặc tạo tranh chấp.
Thống kê cho thấy, trong giai đoạn 2017-2023, khi Nghị quyết 42 còn hiệu lực, ý thức trả nợ của người vay tăng từ 22,8% lên 36,4%. Sau khi Nghị quyết hết hiệu lực cuối 2023, khoảng trống pháp lý khiến xử lý nợ chậm lại. Do đó, việc luật hóa quy định này được kỳ vọng sẽ nâng cao hiệu quả thu hồi nợ và khơi thông thị trường mua bán nợ.
Gần đây, S&P Global Ratings (S&P) đã thực hiện nâng hạng tín nhiệm 3 NH của Việt Nam bao gồm Vietcombank, Techcombank, Eximbank dựa trên cơ sở về việc điều chỉnh đánh giá rủi ro hệ thống NH quốc gia từ mức điểm 9/10 lên mức 8/10.
Theo báo cáo của S&P, một trong những yếu tố thúc đẩy điều chỉnh này là việc hoàn thiện khung pháp lý và FiinRatings nhận định việc luật hóa Nghị quyết 42 là một trong những động lực quan trọng về khung pháp lý được đề cập.
Các chuyên gia kinh tế cũng nhận định, nợ xấu vẫn trong tầm kiểm soát nhờ tín dụng tăng mạnh, dự báo đạt 16–17% năm nay, qua đó làm giảm tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ. Đồng thời, việc cho phép tổ chức tín dụng thu giữ tài sản bảo đảm khi đáp ứng điều kiện, việc xử lý nợ xấu thời gian tới sẽ thuận lợi và minh bạch hơn.
Chứng khoán VCBS cũng dự báo tỷ lệ nợ xấu hệ thống sẽ giảm nhẹ trong quý IV-2025 nhờ tín dụng tăng tốc và hoạt động thu hồi nợ tích cực khi kinh tế khởi sắc. Một số NH thậm chí có thể hoàn nhập dự phòng, tạo thêm động lực lợi nhuận cuối năm.
Trong khi đó, NHNN khẳng định công tác cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu đang được triển khai quyết liệt. Ngành NH sẽ tiếp tục thực hiện Đề án cơ cấu lại giai đoạn 2021-2025, đẩy mạnh xử lý nợ xấu và hạn chế phát sinh nợ mới.
Theo công ty chứng khoán Yuanta, thu hồi nợ xấu hỗ trợ lợi nhuận trong quý II và xu hướng này sẽ tiếp diễn trong 2 quý cuối năm. Điều này được củng cố bởi sự phục hồi của thị trường bất động sản và việc luật hóa Nghị quyết 42, giúp các NH linh hoạt hơn trong việc xử lý tài sản đảm bảo.
Do đó, chất lượng tài sản của các NH cũng sẽ được cải thiện trong thời gian tới. Việc đẩy nhanh xử lý nợ xấu sẽ thúc đẩy thu nhập từ thu hồi nợ xấu, đồng thời giảm bớt áp lực trích lập dự phòng cho các NH.
Tuy nhiên, Yuanta cũng lưu ý rằng từ quý II, lãi dự thu vẫn ở mức cao và có xu hướng tăng tại một số NH quy mô nhỏ và vừa. Những khoản lãi này có thể tiềm ẩn rủi ro, bởi nếu khách hàng không thanh toán đúng hạn, lợi nhuận thực tế và chất lượng tài sản của NH sẽ bị ảnh hưởng.
Các chuyên gia của Yuanta cũng khuyến cáo cần chú ý đến việc nợ xấu mới có khả năng gia tăng đến từ việc đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng.
Yên Lam