Vụ án về lợi dụng chức vụ xét và cấp sắc phong cho người thân
Đây là vụ án làm giả sắc phong thần của Đặng Trần Thường và Nguyễn Gia Cát vào năm 1811.
Đặng Trần Thường, khi làm việc ở Binh tào, dù biết sự việc “tướng Trịnh là Hoàng Ngũ Phúc năm Giáp Ngọ (1774) vào lấn phương Nam, khi về bị chết ở dọc đường, người Trịnh phong làm Phúc thần” nhưng vẫn “liệt lẫn vào điện thờ”, khiến cho Tả Tham tri bộ Lễ là Nguyễn Gia Cát tin theo mà gia tặng là Thanh danh văn võ thánh thần Đại vương. Việc làm của Đặng Trần Thường, dù vô tình hay cố ý, cũng khiến toàn bộ triều thần đình nghị, xét đi xét lại nhiều lần.
Vụ việc làm sắc giả diễn ra từ năm 1804 nhưng đến năm 1811 mới được phát hiện và đưa ra xét xử; phân tích mấu chốt của vụ án với các nhân vật có liên quan là Hoàng Ngũ Phúc, Đặng Trần Thường, Nguyễn Gia Cát và Nguyễn Văn Thành.
Sách “Đại Nam thực lục” (Nhà xuất bản Sử học 1967) ghi rõ: “Đặng Trần Thường và Nguyễn Gia Cát có tội đều bị bỏ ngục. Trước đây Thanh Nghệ và Bắc Thành tâu sự tích bách thân… Đăng trật cho bách thần là điển lệ lớn ở buổi đầu của nhà nước. Bọn người làm gian trá, dối người, khinh thần không tội nào lớn bằng. Và cuộc biến loạn năm Giáp Ngọ, Hoàng Ngũ Phúc chính là thủ ác, nay lại cất lên mà cho là thần, thế chẳng phải là bán nước sao? Việc ấy còn nỡ làm thì việc gì lại chẳng nỡ”.
Ảnh trong bài: Các vị quan nhà Nguyễn. (Nguồn: Tư liệu)
Sau khi định thần nghị tội, Vua theo lời tâu của Bá Phẩm mà phạt “Văn Thành, Quý Dĩnh bị tội trảm, Trần Thường và Gia Cát đều giam hậu; bọn Dục bị tội đồ, những người khác đều bị giáng và phạt khác nhau. Tham quan Lê Chấn cũng vì nhận riêng một đạo thần sắc phần hoàng bị giáng làm điểm quân. Nhân đó hạ chiếu thu lại thần sắc, rồi sai quân Lễ bộ bàn lại việc phong tặng”.
Đây là một vụ án nổi tiếng trong thời kỳ phong kiến, tội danh vi phạm chỉ là lợi dụng chức vụ để xét và cấp sắc phong cho người thân trong gia đình và người quen. Mà những người vi phạm đều quan lại cao cấp trong triều đình, có nhiều chiến công như Đặng Trần Thường từng là Tống trấn Bắc Thành rồi lên làm Thượng thư Bộ Binh; Nguyễn Gia Cát là Tham tri Bộ Lễ; Vũ Quý Dĩnh là Thiêm sự Bộ Lại…
Đại án tham nhũng ở Quảng Nam
Năm 1855, Vua Tự Đức cho xét xử đại án tham nhũng ở tỉnh Quảng Nam. Vụ án có tới hơn 70 quan lại bị kết tội, trong đó xử tội chết 17 người, thậm chí có người chết cũng không thoát tội. Nội dung vụ án được sử liệu Châu bản triều Nguyễn và chính sử Đại Nam thực lục ghi chép tương đối rõ.
Sĩ nhân Chu Trung Lập cuối năm Tự Đức thứ 7 (1854) đau lòng nhìn thấy nhiều chuyện bất công, không minh bạch, quan lại là phải gánh trách nhiệm an dân, chăm lo, dẫn dắt, bảo vệ dân, nhưng lại sách nhiễu nhân dân. Ông đã biên đơn tố cáo. Trong Châu bản triều Nguyễn đơn kiện viết rõ: “Thuyền buôn hối lộ tiền bạc; quan tỉnh ẩn lậu thuế buôn, thuế quế; viên lại tỉnh nhận tiền rồi cho ứng dịch và Bạch Doãn Lân, Nguyễn Chiêm Lượng đục khoét, gian dối, xấu xa; Nguyễn Tường Vĩnh mua chịu điền trạch…”.
Những vị quan lớn ở tỉnh Quảng Nam như Bố chánh, Án sát, Lãnh binh cho đến Thông phán, Kinh lịch, Thư lại câu kết, lợi dụng quyền thế, chức trách của mình để nhận hối lộ, ẩn lậu thuế, vơ vét tiền bạc v.v...
Đơn kiện trình lên, Tam pháp ty xin bác bỏ. Song, Vua Tự Đức nói: “Từ trước đến nay triều đình chăm điều tế, vỗ về dân điêu tàn, bệnh tật mà dân khốn khổ vẫn chưa được dễ chịu. Gạn trong quan lại, người có công được thưởng, kẻ có tội bị trừng trị mà quy chế quan trường chưa chính, đến mức kẻ tiểu dân nơi xóm làng phẫn uất tố cáo. Trẫm có lòng mong sửa trị mà bọn quan tham không thực lòng giúp trị khiến người ta không thể không giận ghét, phải nên chỉnh đốn một phen để sạch lại tệ (quan lại xấu) mà yên dân tình”.
Nhà vua phái Hữu tham tri Bộ Binh kiêm quản Viện Đô sát Trương Văn Uyển cùng với Khoa đạo Nguyễn Vĩnh, Viên ngoại lang ty Hình Phạm Công Đề đến tỉnh Quảng Nam tra xét vụ án.
Khi điều tra, xác minh theo đơn tố cáo, Khâm sai Trương Văn Uyển đã chỉ vạch tội quan lại tỉnh đó và tâu xin: “Từ năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) đến nay, trừ (các viên) đã chết, ngoài ra các viên hiện tại làm Thông phán, Kinh lịch đến Vị nhập lưu Thư lại và đã thăng, điều bổ nơi khác, về hưu xin cho cách chức, tra xét, do tỉnh, do bộ tịch biên gia sản, thu hồi của cải. Các tên đã sung Chủ thủ Nội vụ hoặc can án giam ở trấn xin do bộ lấy cung quy án. (Về) nguyên Án sát Phan Tĩnh, tra xét nha lại tỉnh đã khai ra trước đó (viên ấy) có nhận bạc thuế bất chính. Đốc học Trịnh Xuân Thưởng, Tri phủ Nguyễn Bá Đôn hoặc lấy của cải, hoặc nhận hối lộ, xin cho cách chức, tra xét”.
Nhà vua Tự Đức giận dữ sai truyền dụ và yêu cầu xử phạt thật nặng: “Nguyên Án sát hiện giữ chức Hữu Tham tri Bộ Hộ Phan Tĩnh đã can án nhận bạc bất chính thuộc khoản tội nặng, há cho lưu chức? Phan Tĩnh cho cách chức ngay!
Những người trước đây ẩn giấu bạc thuế bất chính và trộm của cải khi làm việc hiện sung Chủ thủ Nội vụ Lê Đức Nhuận giam tại trấn và Phạm Văn Hương do bộ lấy cung, phúc tra. Đốc học Trịnh Xuân Thưởng, Tri phủ Nguyễn Bá Đôn tham nhũng, rất đáng ghét. Hai viên đó cách chức do Khâm sai công minh tra xét, nghị xử…
Đến như hiện giữ chức tại tỉnh, từ Thông phán Bạch Doãn Lân cho đến bọn Cửu phẩm Nguyễn Đức Minh và Vị nhập lưu Thư lại cùng những người đã bị cách chức gồm 59 viên. Bọn nguyên Thông phán, Kinh lịch đã được thăng bổ, điều bổ, hoặc về quê từ Vũ Văn Thường đến Lê Xuân Loan, tất cả 12 viên đều xin tịch biên gia sản, cho đòi đến tra xét”.
Khi tra xét xong, quan lại liên quan đều bị chỉ tội danh, định hình phạt, kết án 17 người bị xử thắt cổ chết, 25 người bị tội lưu và nhiều người bị tội đồ, tội trượng, cách chức.
Chính sử Đại Nam thực lục chép: “Trương Văn Uyển tra xét án nghĩ đã thành. Can vào vụ án này: Nghĩ xử tội giảo giam hậu có 17 người (nguyên Thông phán 4, Kinh lịch 2, Bát phẩm 8, Cửu phẩm 2, Vị nhập lưu 1); tội lưu 25 người (nguyên Bát phẩm 2, Cửu phẩm 10, Vị nhập lưu 13); tội đồ 12 người (nguyên cửu phẩm 3, vị nhập lưu 9).
Tội trượng và cách chức 8 người (nguyên kinh lịch 2, bát, cửu phẩm đều 1, vị nhập lưu 4, đều đi xét thuyền buôn nước Thanh nhận tiền bạc cho lậu thuế và nhập cảng); lưu lại đợi kết án, 1 người (nguyên Bố chánh hiện làm Tham tri Bộ Hộ là Phan Tĩnh, mấy lần đòi lấy tiền lậu thuế cùng với Đào Trí Phú (nguyên Bố chánh), Phan Bật (nguyên Đốc), chia tang với nhau (bản phần cộng 60 lạng) hiện đang phải giải chức chực ở bộ đợi xét);
Do bộ kết tội 4 người (hiện Tổng đốc là Trần Tri, Hộ đốc Bắc Ninh là Nguyễn Quốc Hoan; nguyên Bố chánh Bình Định là Nguyễn Hữu Độ, các viên ấy đều vì bọn nha ở tỉnh nhận bạc đút lót của thuyền buôn nước Thanh, phải khép vào tội thất sát, nhưng lại can về khoản phường buôn Thanh đút tiền cho, hiện do bộ tra xét lại nghị tội);
Tước bỏ tên trong sổ làm quan 1 người (cát sĩ, nguyên Tri phủ Điện Bàn là Nguyễn Bá Đôn nhận đơn kiện, sách nhiễu tiền hối lộ, mấy lần cộng 12 lạng); truy thu lại bằng sắc, xóa tên trong sổ làm quan 1 người (viên Án sát đã chết là Đặng Kham, mấy lần thực lấy tiền hối lộ 2 lạng bạc; còn 80 lạng, thì bị người biết, vỡ chuyện, phải giao trả lại. Chiểu lệ “hạnh kiểm kém” nghĩ xử); tâu bày lên đợi chỉ 1 người (Tiến sĩ, nguyên Đốc học là Trịnh Xuân Thưởng, nói việc thay hộ cho người, nhận tiền, gạo, đường, sản vật thổ ngơi, tính chiết can thành tang không đủ 1 lạng, coi với việc Bá Đôn có khác)”.
Vua Tự Đức cũng giảm nhẹ tội cho những người hối cải, bồi hoàn đủ tiền bạc do già yếu, bệnh tật. Vì vậy, “án ấy từ tội lưu trở lên mà tuổi 70 - 80 có 6 người, bị tật bệnh không chữa được 02 người, đều cho giảm tội, cách bỏ chức dịch; Trịnh Xuân Thưởng được gia ơn giáng 4 cấp, đổi đi nơi khác”.
Những viên quan Trần Tri, Nguyễn Quốc Hoan, Nguyễn Đồng Khoa, Nguyễn Hữu Độ vì nhận tiền của người tặng nên đều giáng 4 cấp cho lưu lại; nguyên Án sát Phan Tĩnh, nguyên Kinh lịch Đỗ Hữu Công bị kết án phạt trượng, cách chức nhưng đã bồi hoàn đủ số nên gia ân giáng 3 cấp, đổi bổ nơi khác.
Vua Gia Long, sau này là Tự Đức lúc đó đã rất cương quyết nếu quan điểm “mọi người bình đẳng trước pháp luật”. Sự công minh của nhà vua, đặc biệt là Gia Long thể hiện “phép nước bất vị thân”, nên tất cả những vi phạm đều không được châm chước, không được lấy công lao giúp nước, chức vụ cao để mong giảm nhẹ hình phạt, dù ở cương vị nào khi phạm tội vẫn chiếu theo quy định của pháp luật để xét xử. Đó không chỉ là bài học dành cho người xưa mà đến ngày nay vẫn là một tiếng chuông cảnh tỉnh cho hậu thế.
Tuấn Ngọc