Nhà thơ Tân Quảng - Mượn thơ lục bát làm thuyền

Nhà thơ Tân Quảng - Mượn thơ lục bát làm thuyền
7 giờ trướcBài gốc
Bên ngoài nhìn ông có vẻ thâm trầm, lặng lẽ nhưng ẩn sâu bên trong là một tâm hồn nhân ái, bao dung và hướng thiện. Khuôn mặt hao gầy, dáng cao mảnh khảnh, mái tóc nghệ sĩ, ông vẫn giữ nguyên được nếp sống và tính cách mộc mạc, giản dị của người Kinh Bắc xưa.
Nếu nói về thơ lục bát ở Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Bắc Ninh, có lẽ người đầu tiên được nhắc đến là nhà thơ Tân Quảng. Không phải ngẫu nhiên mà ông có một vị trí vững chắc trong lòng bạn đọc, hành trình thơ ông là sự lao động miệt mài, cả đời thơ lênh đênh trên con thuyền lục bát, cả đời thơ hầu như chỉ sáng tác duy nhất một thể loại đó là thơ lục bát. Trên dòng sông thời gian, con thuyền thơ lục bát cứ thế trôi, chở theo tiếng lòng ông như nhịp chèo khua bên dòng sông Lục, núi Huyền, nơi có miền ký ức, có bóng tre làng, có mùi hương lúa chín và cả những nỗi niềm không thể gọi thành tên.
Nhà thơ Tân Quảng.
Có lẽ chính vì vậy mà sau này ông có cả một tập thơ “Lục bát làm thuyền” để chuyên chở những điều mình muốn nói trong một hành trình thơ dài suốt gần cả cuộc đời. Lục bát với ông không chỉ là một thể thơ, nó còn là linh hồn của văn hóa Việt. Con thuyền lục bát không phải lúc nào cũng xuôi dòng, mát mái. Có lúc nó cũng chao đảo giữa những làn sóng thơ mới, thơ hiện đại, thơ tự do, thơ siêu thực. Ông như người chèo thuyền giữa sương mù, lênh đênh sóng nước nhưng không hề lạc lối, con thuyền ấy vẫn neo vào lòng người bằng vẻ đẹp mộc mạc, ngân nga như lời ru của mẹ từ thuở nằm nôi.
Một điều dễ nhận ra, giá trị làm nên thơ ông chính là sự đánh thức cái hồn quê, tình quê đầy mỹ cảm nơi ông sinh sống. Đọc thơ, dễ dàng bắt gặp hình ảnh mùa màng, cánh đồng, dòng sông, con đò, chùa chiền trong những ngôi làng cổ kính xưa kia bên dòng sông Thương, sông Cầu, sông Lục. Có thể nói, ông đích thị là nhà thơ gắn bó với đồng quê, gắn bó với những giá trị truyền thống cốt lõi để sau này ông thỏa sức thả hồn vào thiên nhiên, cây cỏ, hoa lá, chim muông và những triết lý về lẽ sống, về con người thông qua ngôn ngữ làm nên những giá trị nghệ thuật bằng thơ lục bát. Tất cả hình ảnh của những ngôi làng cổ ven sông vùng Kinh Bắc đã ngấm vào tâm hồn ông như một tình yêu bản năng giàu hình ảnh và đậm chất dân tộc.
Ông là người vui vẻ nhưng không ồn ào, thẳng tính nhưng không áp đặt. Nhiều khi buồn ông chỉ lặng lẽ ngồi bên hiên nhà nhâm nhi chén trà, ly rượu và kể chuyện bằng thơ. Chẳng bao giờ thấy ông than thân, trách phận. Mọi thứ với ông đều là hư thực, phù du. Ông bảo, cái đẹp thường mong manh, loáng một cái là nó qua đi nhanh như chớp mắt, người tài thường cô độc như những câu thơ chẳng nằm ở chốn ồn ào. Cái đẹp nằm ở sự giản dị. Nó như một bông hoa dại nở ven đường, chẳng cần chăm sóc, ngợi ca nó vẫn nở theo mùa.
Trong quan niệm của ông: “Tôi làm thơ lục bát như một sự trở về nguồn cội của dân tộc, được tắm gội trong nguồn suối thiêng liêng bất tận của thi ca…”. Sinh ra từ ca dao, tục ngữ, lời ru, thơ lục bát dễ gần, dễ thuộc, dễ nhớ, dễ truyền miệng như một dòng chảy không bao giờ vơi cạn.
Thơ ông vừa hòa quyện với cảm xúc, vừa gửi gắm triết lý sống: "Cha đi bừa lúc hừng đông/ liêu xiêu dáng mẹ gánh gồng hoàng hôn"; "Cổng làng bao cuộc tiễn đưa/ có người biền biệt giờ chưa thấy về" (Cổng làng). "Chung nhau một lối đi về/ rơm vàng rối bước ngõ quê tháng mười/ rêu mờ cổng gạch tróc vôi/ có con chó đá vẫn ngồi hóng trưa"; "Ao bèo đêm ếch gọi nhau/ bờ tre con cuốc kêu đau cả chiều" (Chung nhau một lối đi về).
Những câu thơ như những lát cắt đầy cảm xúc, không chỉ gợi hình ảnh mà ở đó là chiều sâu triết lý về thời gian, con người, nơi có sự hy sinh, tảo tần, mòn mỏi của cả cha và mẹ. Người đi từ lúc hừng đông, người về tận lúc hoàng hôn gánh gồng. Cổng làng cũng là biểu tượng của quê hương, nơi chứng kiến những cuộc chia ly, có những người ra đi mà không trở lại. Thời gian làm rêu mờ, cổng gạch tróc vôi và hình ảnh con chó đá như một chứng nhân của thời gian gợi lên những triết lý sâu sắc.
Nhà thơ Tân Quảng là người hào sảng, yêu quý bạn thơ. Ông có rất nhiều bạn văn chương như nhà thơ Nguyễn Đức Mậu; họa sĩ Thành Chương; nhà điêu khắc Phạm Xuân Trường; nhà thơ Nguyễn Đức Hạnh v.v… Đã có lần tôi đưa các nhà thơ Phạm Hồ Thu; Đỗ Bạch Mai; Đoàn Thị Ký; Lê Thúy Bắc lên thăm ông. Mọi người biết và đọc thơ ông trên Báo Văn nghệ; Tạp chí Thơ; Tạp chí Nhà văn và Cuộc sống của Hội Nhà văn Việt Nam. Tình bạn của những người làm thơ trân trọng nhau bằng sự ngưỡng mộ, bằng những vần thơ vang vọng, họ đọc thơ cho nhau nghe bằng sự giao hòa đầy cảm xúc. Họ ngồi bên nhau bằng sự lắng nghe, thấu hiểu.
Vài năm trở lại đây, tôi may mắn được tham gia “Nhóm bút Xương Giang” cùng ông, thi thoảng có những cuộc gặp gỡ, chia sẻ với nhau về cuộc sống, về thơ. Những buổi như vậy ông luôn là người cởi mở, chân thành, nhiệt huyết, ông nói “Thơ lục bát là ngôi nhà cũ, là vỉa than trầm tích thắp lên ngọn lửa thi ca của đương đại như một sự kế thừa” và ông đọc mấy câu thơ như rút ruột của mình: "Cũ như tục ngữ ca dao/ lời ông cha chẳng câu nào bỏ đi/ bập bùng cháy một nghĩ suy/ mới là ngọn lửa, cũ thì vỉa than".
Đúng vậy! Thơ lục bát là thể thơ cũ, cũ như ngôi nhà cũ, nhưng chính ngôi nhà ấy lại mang dáng dấp hồn quê, là trầm tích, là văn hóa cội nguồn, vừa là di sản, vừa là tài sản trong tâm thức người Việt. Cái cũ là nền móng, là triết lý sống, là đạo lý làm người. Cái mới là ngọn lửa, là khát vọng, sáng tạo, là tư duy hiện đại, cách khai thác đề tài, cách tân ngôn ngữ, kỹ thuật viết sao cho vừa giữ được hồn cốt, vừa biến hóa linh hoạt, có chiều sâu tư tưởng.
Một số tập thơ của nhà thơ Tân Quảng.
Thơ lục bát Tân Quảng vừa là mạch ngầm, vừa là sóng nổi như những câu thơ: "Một mai buông bút xuôi tay/ xác trà phảng phất vơi đầy hồn sen" (Một mai); "Con thuyền lục bát thơ tôi/ mái chèo ký ức cứ bơi ngược dòng" (lục bát quê); "Ngược tìm về bến sông xưa/ lòng ta chưa tạnh cơn mưa ngày nào/ lặng nhìn gió xác xơ lau/ bờ kia cát lở làm đau bờ này"; "Mình nghèo lấy chữ làm sang/ lúc xuôi tay chọn bóng làng để chôn" (khúc cảm - 25); "Chổi tre đâu dáng lưng còng/ vắng tanh bậu cửa mẹ không còn ngồi/ sương chiều lạnh lắm mẹ ơi/ về cho con Vện vẫy đuôi nó mừng/ con ngồi nhớ mẹ rưng rưng" (Sương chiều…); "Tôi qua mấy dãy hàng cua/ cái xưa mình bán giờ mua cho mình" (Chợ làng). Bút pháp nghệ thuật trong thơ lục bát của ông thường biến hóa đa dạng, linh hoạt. Câu thơ lúc dung dị, dân dã, lúc nhuần nhuyễn cổ điển theo nhịp điệu, lúc đọng lại đầy tính triết lý về đời sống, về con người.
Nhà thơ Tân Quảng là người của những vần thơ lục bát mềm như ngọn khói bếp quê, gần đây có vẻ như ông đã buông bút và chuyển sang đắp tượng, vẽ tranh, làm bìa sách, phù điêu… Ông có thể ngồi cả ngày bên đất sét, xi măng, những thứ vô tri và thầm thì nói chuyện như một người bạn cũ. Ông đắp chân dung, phù điêu nhà thơ Anh Vũ; Trịnh Công Sơn; Bùi Giáng; Hữu Loan; Nguyễn Gia Trí; Bùi Xuân Phái... Ông bảo: "Mỗi người một nỗi riêng tư/ niềm vui thì thiếu chỉ dư nỗi buồn". Nhà điêu khắc đồng Phạm Xuân Trường bạn ông thì bảo: “Trăm khuôn mặt trăm nỗi buồn/ nỗi bi thương ấy ngọn nguồn tại ai”. Ông làm vì sở thích, niềm đam mê và đem tặng bạn bè chứ không hề vì lợi nhuận, kinh tế. Nhiều người đặt và trả tiền ông cũng không nhận.
Nhà thơ Tân Quảng bằng sự sáng tạo, trí tuệ, năng lực, trực cảm đã thành công khi vượt sóng gió trên con thuyền lục bát của mình.
Nhà thơ Tân Quảng sinh năm 1948. Ông là hội viên, Hội Nhà văn Việt Nam, hội viên, Hội VHNT tỉnh Bắc Ninh. Ông đã xuất bản 8 tập thơ: "Mưa không quá ngọ" (2004); "Bóng quê" (2007); "Lá nhú chân chim" (2009); "Buồn trong leo lẻo" (2014) "Viết rồi lại xóa" (2017); "Chiều lọt kẽ tay" (2018); "Rơm vàng rối bước ngõ quê" (2020) và "Lục bát làm thuyền" (2022) - (NXB Hội Nhà văn). Giải thưởng chính: Giải B (không có giải A) Liên hiệp các Hội Văn học - Nghệ thuật Việt Nam. Giải thưởng Sông Thương 5 năm lần thứ 3 và thứ 4, cùng một số các giải thưởng khác.
Đinh Tiến Hải
Nguồn VNCA : https://vnca.cand.com.vn/tu-lieu-van-hoa/nha-tho-tan-quang-muon-tho-luc-bat-lam-thuyen-i783368/