Phóng viên Chuyên đề ANTG Giữa tháng - Cuối tháng có cuộc trò chuyện với anh về những vấn đề bức thiết đang đặt ra với nền nghệ thuật đương đại nước nhà.
"Mưa đỏ" mang lại cái nhìn lạc quan cho văn học, nghệ thuật về đề tài chiến tranh cách mạng
- PV: Tôi muốn bắt đầu câu chuyện từ bộ phim "Mưa đỏ" của đạo diễn Đặng Thái Huyền đang gây sốt phòng vé và đạt doanh thu 467 tỷ đồng sau 13 ngày công chiếu, đã vượt "Bố già" của Trấn Thành để giữ vị trí top 4 phim doanh thu cao nhất lịch sử phòng vé Việt. Điều này cho thấy đề tài chiến tranh, lịch sử vẫn hấp dẫn khán giả và có thể tiếp cận đại chúng. Anh đánh giá thế nào về vấn đề này?
+ Nhà văn Thiên Sơn: Để trả lời câu hỏi này, ta phải trở lại với một thực tế khác. Trước đây, tại sao vẫn là đề tài chiến tranh nhưng nhiều phim sản xuất ra đều thất bại? Tôi không muốn nhắc tên một bộ phim cụ thể nhưng nếu là người theo dõi điện ảnh, chắc mọi người đều biết có những bộ phim đầu tư lớn, đạo diễn nổi tiếng, nhưng rồi cuối cùng phim vẫn không thành công, ra rạp chẳng có người xem. Thực tế đó kéo dài nhiều năm, cho đến vài năm gần đây, khi bộ phim "Đào, phở và piano" của đạo diễn Phi Tiến Sơn ra đời; dịp 30/4 vừa rồi, khi phim "Địa Đạo: Mặt trời trong bóng tối" của đạo diễn Bùi Thạc Chuyên và mới đây là "Mưa đỏ" của đạo diễn Đặng Thái Huyền chiếm vị trí áp đảo tại các phòng vé. Rõ ràng, có một sự thay đổi lớn trong thị hiếu công chúng và cách thức thực hành nghệ thuật của các nhà làm phim trong những năm gần đây.
- PV: Vậy, theo suy nghĩ của anh, điều gì làm cho những bộ phim chiến tranh của Việt Nam gần đây được khán giả chú ý?
+ Nhà văn Thiên Sơn: Sức hút của các tác phẩm về đề tài chiến tranh trong thời gian gần đây có nhiều lý do. Tâm thức chiến tranh trở lại, đang ám ảnh con người. Trước hết, phải nói đến tình hình thế giới, cuộc chiến ở Ukraine là cuộc chiến lớn nhất châu Âu sau Thế chiến II, đưa cả thế giới vào một cuộc hỗn loạn chiến lược và sự thù nghịch ghê gớm. Các cuộc đụng độ và nội chiến khác nổ ra ở nhiều nơi trên thế giới. Vận mệnh của nhiều dân tộc một lần nữa lại bị đặt trong sự đe dọa. Điều đó có tác động không nhỏ đến tâm lý người xem.
Đáng chú ý là hiện nay ngành điện ảnh đã có bước chuyển mình nhanh chóng. Trong hàng thập kỷ trước đây, ngành công nghiệp điện ảnh của các nước phát triển sản xuất bằng công nghệ cao đã phủ sóng khắp thế giới thì ở nước ta, công nghệ làm phim lạc hậu, thiếu phương tiện và kinh phí, khiến nhà làm phim bất lực khi tái hiện thế giới nghệ thuật trong tác phẩm. Dù trước đây, trong dòng phim chiến tranh cách mạng, các đạo diễn tài năng như Hồng Sến, Hải Ninh... đã để lại những tác phẩm nổi tiếng như "Em bé Hà Nội", "Cánh đồng hoang"...
Nhưng, có lẽ phải đến "Mưa đỏ" thì ta mới thấy được nghệ thuật dàn dựng các đại cảnh hoành tráng, kỹ xảo điện ảnh đã đạt đến tầm mức cao, có thể sánh với các tác phẩm của thế giới, giúp các nhà làm phim có thể tái hiện cảnh 81 ngày đêm chiến đấu tại thành cổ Quảng Trị một cách khốc liệt khủng khiếp khiến người xem vô cùng xúc động và kinh ngạc.
Nhà văn Thiên Sơn.
Một lý do khác khiến bộ phim vượt quá những giới hạn cũ là các nhà quản lý, các nhà làm phim đã có sự thay đổi về mặt tư duy. Qua phim "Mưa đỏ", người xem thấy được những sự việc, những con người, những số phận ở cả hai chiến tuyến, những điều mà trước đây có thể không nói đến được. Đặc biệt, bộ phim đưa người xem vào một thế giới nghệ thuật khốc liệt chưa từng có, khiến người xem cảm nhận một nỗi đau quá cỡ đối với dân tộc mình mà trước đây chưa có tác phẩm nào nói được.
Lý do cuối cùng khiến bộ phim "Mưa đỏ" tiếp cận được nhiều công chúng còn là ở chỗ nó ra đời đúng thời điểm, tận dụng được các lợi thế về truyền thông và tiếp thị trên các nền tảng số, tạo nên sức lan tỏa mãnh liệt. Theo tôi, "Mưa đỏ" là mốc quan trọng đánh dấu sự phát triển và tạo đà cho sự phát triển của ngành điện ảnh và cũng mang lại cái nhìn lạc quan cho các nhà sáng tác trong đề tài chiến tranh cách mạng trong tương lai.
- PV: Nhìn lại, không phải đến bây giờ mà thực tế chúng ta đã có một di sản văn học, nghệ thuật về đề tài chiến tranh, lịch sử. Anh nghĩ thế nào về di sản nghệ thuật đề tài chiến tranh, lịch sử để lại?
+ Nhà văn Thiên Sơn: Chính thực tế khốc liệt mà dân tộc ta phải trải qua trong thế kỷ 20 trở thành cơ sở xã hội cho nền nghệ thuật của chúng ta. Từ năm 1945 - khi nền nghệ thuật mới ra đời, tính đến nay tròn 80 năm, chúng ta đã có một bề dày với rất nhiều tác phẩm ở tất cả các ngành nghệ thuật. Trong âm nhạc có Văn Cao, Hoàng Vân, Trịnh Công Sơn...; trong văn học có Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên, Hoàng Cầm, Quang Dũng, Nguyên Ngọc, Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh, Nguyễn Minh Châu, Bảo Ninh, Chu Lai...; trong điện ảnh chúng ta có Hồng Sến, Hải Ninh, Bùi Đình Hạc, Đặng Nhật Minh...
Và, còn rất nhiều, rất nhiều nghệ sĩ khác đã cống hiến tài năng của mình làm nên nền nghệ thuật nước nhà, tạo ra những giá trị to lớn cho nền nghệ thuật Việt Nam, có vai trò rất lớn trong đời sống tinh thần của nhân dân trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc. Một số tác phẩm của họ đã trở thành đỉnh cao, tồn tại như một di sản bất hủ, đáng tự hào về một thời hào hùng của dân tộc.
- PV: Có phải, trong thời bình, một thời gian đề tài này bị nhiều người mặc định là kén khán giả, do nó nặng màu sắc tuyên truyền, thiếu những góc nhìn đa chiều, thiếu những tác phẩm chạm đến cảm xúc người xem?
+ Nhà văn Thiên Sơn: Việc thiếu người đọc, người xem các tác phẩm nghệ thuật về chiến tranh trong thời bình là có nhiều lý do. Ví dụ như trong điện ảnh, trước đây, công nghệ, kỹ xảo của chúng ta không theo kịp những đòi hỏi của công chúng. Người xem tiếp xúc với điện ảnh thế giới nhiều nên có sự so sánh, đối chiếu, nhu cầu và thị hiếu của họ rất cao. Nếu nhìn rộng ra, đúng như chị nói, có một nguyên nhân chung là hầu như các tác phẩm nghệ thuật của chúng ta một thời gian dài vẫn nghiêng về một chiều, đơn giản, mà thiếu sự phản ánh phong phú, đa chiều, soi rọi được những mặt khuất lấp, những nghịch lý khủng khiếp của chiến tranh. Nghĩa là chưa thỏa mãn được những đòi hỏi của công chúng. Trong khi lớp trẻ lớn lên, ảnh hưởng văn hóa nước ngoài rất nhiều, tâm lý thưởng thức rất phức tạp, đa dạng.
Khán giả, độc giả hiện nay có sự phân mảnh thành những khối, những bộ phận với nhu cầu riêng, tính cá nhân hóa rất cao, đòi hỏi các nghệ sĩ khi sáng tác và công bố tác phẩm phải hiểu họ. Không đến được với đông đảo khán giả thì nền văn học, nghệ thuật sẽ thất bại. Việc phim "Địa đạo: Mặt trời trong bóng tối" hay "Mưa đỏ" gần đây bùng lên như hiện tượng là một tín hiệu vui. Nhưng, chúng ta phải tiếp tục mở rộng tư duy nghệ thuật, táo bạo hơn nữa, đầu tư nhiều hơn nữa thì mới hy vọng kéo người đọc, người xem về với nghệ thuật nước nhà và hình thành một thị trường ổn định trong nước.
Các tác phẩm viết về đề tài chiến tranh.
Phải đổi mới tư duy trong tất cả các lĩnh vực
- PV: Rõ ràng, chúng ta cần thêm nhiều những "Mưa đỏ", "Địa đạo: Mặt trời trong bóng tối" trong văn học, nghệ thuật. Làm sao để văn học viết về chiến tranh đến gần hơn với công chúng, nhất là giới trẻ? Câu hỏi này có lẽ là nỗi bận tâm đau đáu của hầu hết các nhà văn viết về mảng đề tài này. Từ góc độ quan sát của mình, anh có thể chia sẻ?
+ Nhà văn Thiên Sơn: Văn học là một ngành nghệ thuật quan trọng nhất trong quá khứ, nhưng cho đến nay, khi ngành công nghiệp văn hóa phát triển thì nó có vẻ bị lấn át một phần. Một bộ phim, một vở kịch, một tác phẩm âm nhạc hay có thể được hỗ trợ của công nghệ dàn dựng hiện đại và tạo hiệu ứng lan truyền trên các nền tảng số rất nhanh chóng. Còn văn học thì vẫn là công việc của một mình nhà văn, một thứ lao động thủ công vô cùng đơn độc, khó khăn, vất vả. Trong khi đó, dù công nghệ in ấn phát triển nhưng công tác xuất bản của ta vẫn chưa theo kịp, điều đó đặt thêm cho nhà văn những thách thức to lớn.
Trong quá khứ và cả hiện tại, chúng ta có khá nhiều tác phẩm viết về chiến tranh sinh động và sâu sắc. Tôi cho rằng, văn học chiến tranh của chúng ta đã có những đỉnh cao, nhưng công tác đánh giá còn phiến diện, chưa thỏa đáng. Đôi khi, người đánh giá dựa vào những tiêu chí cũ, không thể nhìn thấu những tác phẩm có sáng tạo độc đáo, đặt ra những vấn đề mới. Điều đó làm cho lớp trẻ, trên con đường hướng về tương lai, càng xa rời những di sản tinh thần của dân tộc mình.
Ấy là nói về những điều đang tác động đến môi trường sáng tác của nhà văn, nếu đi vào công việc cụ thể của nhà văn thì còn nhiều khó khăn khác nữa. Sáng tạo văn học vốn dĩ là một trong những công việc nghiệt ngã. Nhà văn, một mình phải đóng tất cả các vai trò từ việc kiến tạo thế giới nghệ thuật, xây dựng nhân vật, hệ thống chi tiết, hình ảnh, trau chuốt ngôn từ... Và, ngày hôm nay, khó khăn thách thức còn gay gắt hơn, đối với nhà văn trong việc tiếp cận bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ tuổi. Chúng ta đều biết những người trẻ - bạn đọc chính của nền văn học, đã khác xa với lớp người trung niên. Lớp trẻ lớn lên trong hòa bình, tiếp cận văn hóa nước ngoài và tiếp cận nền nghệ thuật toàn cầu với những thiên hướng phức tạp nên những suy nghĩ, cảm xúc, quan điểm thẩm mĩ của họ không dễ gì nắm bắt được. Khi nhà văn viết tác phẩm của mình mà không nắm được tâm lý thưởng thức của độc giả thì việc công bố tác phẩm tạo được hiệu ứng lớn là vô cùng khó khăn, tựa như ném một cây kim xuống đại dương, không để lại một dấu vết gì.
- PV: Từ những điều anh nói, có thể suy ra, nguy cơ đứt gãy văn hóa giữa các thế hệ là vấn đề phức tạp và gây hệ lụy trong sáng tác hiện nay?
+ Nhà văn Thiên Sơn: Đúng thế. Điều đáng sợ nhất, thách thức lớn nhất hiện nay là sự mất liên lạc giữa các thế hệ. Chúng ta phải đối mặt với thực tế hiểm nghèo là có sự mất gốc, sự đánh mất ký ức lịch sử của một tầng lớp độc giả. Và, một thực tế khác, những thế hệ đang sáng tạo hiện nay dần mất liên lạc hoặc khó liên lạc với thế hệ sau. Những nhu cầu của họ, những vui buồn, suy nghĩ và mong muốn của họ, thị hiếu của họ có phần xa lạ với người sáng tác thế hệ trước. Nếu không nhìn rõ vấn đề này thì sẽ không thể khắc phục được vấn đề cơ bản hiện nay dẫn đến việc văn học nghệ thuật mất dần công chúng trẻ. Muốn khắc phục nó, không chỉ một mình nhà văn nâng cao chất lượng tác phẩm là đủ, mà còn đòi hỏi những giải pháp đồng bộ ở cả các cấp quản lý trong một thời gian dài.
- PV: Theo GS.TS, NGND Vũ Minh Giang thì Việt Nam có một kho tàng văn hóa đa dạng, phong phú và còn rất nhiều dư địa để tiếp tục khai thác trong nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Thế nhưng, cho đến nay, chúng ta chưa thể khai thác hết những vẻ đẹp của nó để biến thành những tác phẩm đỉnh cao. Theo anh, vì sao?
+ Nhà văn Thiên Sơn: Đây là một câu chuyện đã nói rất nhiều rồi nhưng không thể giải quyết một cách rốt ráo. Tôi không quen nói nhiều về tiềm năng phát triển. Điều tôi quan tâm là hệ thống các giải pháp để nền nghệ thuật ngày càng giành được những thành tựu lớn hơn, nền nghệ thuật phục vụ được nhiều hơn cho công chúng, chống lại được sự lấn át của các tác phẩm từ nước ngoài và mở rộng được thị trường ra thế giới.
Rõ ràng, để làm được điều đó, càng ngày chúng ta càng phải nhìn vấn đề một cách tổng quát và phải đưa ra những giải pháp đồng bộ. Phải đổi mới tư duy trong tất cả các lĩnh vực từ quản lý, chỉ đạo, đến đầu tư, sáng tác, công bố và quảng bá, đánh giá tác phẩm...
Khó nhất là tài năng trác tuyệt thì phải đợi cơ may của lịch sử sản sinh ra. Còn tài năng sáng tác dĩ nhiên là thời nào cũng ít, nhưng không phải là không có. So với các nước trên thế giới, Việt Nam là một dân tộc yêu nghệ thuật và rất nhiều người tham gia sáng tác. Trong đó, sẽ dần lộ ra những cá tính sáng tạo đáng trân trọng.
Tuy nhiên, nhìn ở bình diện chung, điều chúng ta thiếu nhất là sự đầu tư cho văn hóa, nghệ thuật. Ở góc độ quản lý nhà nước, chúng ta cần tôn trọng hơn cá tính của người nghệ sĩ và đầu tư cho nghệ thuật chuyên nghiệp. Nền nghệ thuật của chúng ta vẫn còn nghiệp dư bởi các nghệ sĩ không có điều kiện tu dưỡng nghề nghiệp thường xuyên, nâng cao không ngừng khả năng sáng tạo vì họ còn vật vã mưu sinh. Đáng lẽ, họ phải được học hành chuyên sâu, toàn tâm, toàn ý với tác phẩm thì bây giờ họ phải dành một nửa, thậm chí 2/3 thời gian để lo việc khác. Đầu tư cho văn hóa, nghệ thuật phải rất lớn và đồng bộ từ tất cả các khâu (nâng cao năng lực quản lý, đào tạo nghệ sĩ, tạo môi trường sáng tạo, công bố và đánh giá, quảng bá tác phẩm). Chẳng hạn như việc làm một bộ phim, có rất nhiều điều đặt ra ở đây. Điện ảnh là nghệ thuật thị giác, phải có hình ảnh ấn tượng, phải sử dụng kỹ xảo.
Nhưng, như thế cũng chưa đủ. Phải có độ mở tư duy, phải tôn trọng sự sáng tạo độc đáo, tinh tế trong từng chi tiết và những ý tưởng mới về mặt nội dung thì mới có thể tạo ấn tượng và thành công. Chúng ta hay than phiền không có tác phẩm lớn nhưng chúng ta đã tạo điều kiện cho nghệ sĩ làm việc chưa, đầu tư thực sự cho nghệ thuật chưa và có tự hỏi việc đầu tư từ xưa đến nay có gì chưa đúng dẫn đến việc thiếu hiệu quả? Đó là những vấn đề phải nhìn nhận một cách thấu đáo. (Khi được Điện ảnh Quân đội đầu tư, chúng ta mới có "Mưa đỏ" và đó là sự đầu tư đúng đắn, hợp lý). Công chúng bây giờ đòi hỏi rất cao. Nếu chúng ta không thay đổi, không nỗ lực, không chấp nhận những sự sáng tạo vượt qua những giới hạn thông thường thì chúng ta bị công chúng bỏ qua. Và, khi một nền nghệ thuật không phục vụ được công chúng của mình thì sẽ bị lùi lại phía sau.
Nhà văn Victor Hugo nói đại ý rằng, "cái bình thường là cái chết của nghệ thuật". Nghệ thuật chỉ chấp nhận cái phi thường, cái khác thường có thể gây ngạc nhiên và xúc động. Không ai xem một bộ phim để thấy những chi tiết bình thường, những số phận bình thường như cuộc đời. Nó phải mang đến một niềm ước vọng, sự kinh ngạc hay nỗi đớn đau... Vì thế, cần phải có những tác phẩm có góc nhìn đa chiều, dám đặt những vấn đề trước đây chưa từng đặt ra.
Phim “Mưa đỏ” đang đạt doanh thu kỷ lục.
Nghệ thuật là sự kết tinh của bản sắc, căn tính của người Việt
- PV: Trong thời đại toàn cầu hóa, nhiều nhà nghiên cứu đã e ngại về sự xâm lăng văn hóa từ các nước phát triển đang hủy hoại nền văn hóa, nghệ thuật của các dân tộc nhỏ yếu hơn. Anh nghĩ sao về điều này và chúng ta phải làm gì để chăm lo cho đặc tính dân tộc trong nghệ thuật?
+ Nhà văn Thiên Sơn: Mỗi dân tộc đều cố gắng để có đặc trưng riêng trong nghệ thuật. Việt Nam là nền văn hóa lâu đời và có ý thức xây dựng nền văn hóa, nghệ thuật độc đáo của chính mình. Tác phẩm văn học, nghệ thuật là sự kết tinh của bản sắc, căn tính của người Việt. Phải làm được như vậy để khi ra thế giới chúng ta không bị hòa tan. Nghệ thuật cần tính dân tộc. Câu chuyện trong tác phẩm phải là câu chuyện của người Việt, bối cảnh, phong tục phải mang dấu ấn dân tộc. Và, vấn đề tư tưởng phải là vấn đề cấp thiết đối với cuộc sống của con người trên đất nước mình.
Chúng ta đã nói nhiều đến tính dân tộc trong nghệ thuật. Tuy nhiên, tôi vẫn muốn lưu ý một điều rằng: chúng ta càng phải biết âu lo về một tương lai không xa, những giá trị từ nước ngoài lấn át và hủy hoại văn hóa của dân tộc mình. Tôi không phải là người thủ cựu chỉ coi những giá trị của dân tộc mình là nhất, nhưng tôi e ngại sự xóa nhòa bản sắc và đến lúc con cháu chúng ta đời sau sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc xác lập vị thế của chính mình trong nghệ thuật, nhiều giá trị và chuẩn mực truyền thống tốt đẹp bị đảo lộn hoặc biến mất, những bi kịch trong lối sống nảy sinh và đạo đức xã hội tiếp tục bị hủy hoại.
- PV: Nhưng, chắc hẳn, ngoài tính dân tộc, văn học, nghệ thuật còn mang tính thời đại. Nghĩa là, nó phải phù hợp với những xu hướng lớn của đời sống, nó không xa lạ với những vấn đề thời sự, thậm chí những vấn đề toàn cầu. Anh nghĩ sao về điều đó?
+ Nhà văn Thiên Sơn: Đúng thế! Văn học nghệ thuật không thể rời xa những biến động của đời sống. Người nghệ sĩ không thể quay mặt trước những biến động của cuộc đời và những số phận con người, những bi kịch lớn của xã hội đang bày ra trước mắt. Chẳng hạn như: hiện nay nông thôn đang dần đô thị hóa, làng xóm không còn, nhiều hình ảnh về con người và cảnh vật biến mất. Điều này gây ra sự lìa đứt trong mối quan hệ giữa con người với cội rễ của mình và khoảng cách giữa các thế hệ ngày càng lớn. Hay, cuộc sống ngày nay đã trở nên cá nhân hóa cao độ, một bộ phận người trẻ chú trọng chăm lo cho cuộc sống riêng tư một cách cực đoan mà rũ bỏ trách nhiệm với gia đình, khiến lối sống độc thân gia tăng... Có thể nói, rất nhiều, rất nhiều những vấn đề mà đời sống hiện đại đang đặt ra và văn học, nghệ thuật cần phải phản ánh, góp phần vào cuộc đổi thay chung tiến bộ hơn, nhân văn hơn vì sự phát triển của xã hội.
- PV: Chúng ta đã nói đến đặc tính dân tộc và cả những yếu tố thời sự cần có trong một nền nghệ thuật. Nhưng, nếu quan sát, chúng ta sẽ thấy còn ít tác phẩm đi vào những vấn đề nóng bỏng của đời sống. Có phải sự đồng hành của người nghệ sĩ với đời sống của phần lớn nhân dân đang giảm đi so với thời kỳ trước, khi nghệ sĩ "cùng máu thịt với nhân dân", cùng lao vào những nơi máu lửa và hy sinh như một chiến sĩ trên tiền tuyến?
+ Nhà văn Thiên Sơn: Trong một lần được gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp, trước các nhà văn khác nữa, Đại tướng nhìn về phía tôi - người trẻ nhất trong đoàn lúc đó và nói: "Nhà văn phải viết về ngày hôm nay, vì ngày hôm nay là quan trọng nhất". Tôi luôn nhớ câu nói đó của Đại tướng, như một lời huấn thị sâu sắc trong đời cầm bút của mình.
Nếu trong chiến tranh, vấn đề lớn nhất là vận mệnh dân tộc, vận mệnh của cộng đồng thì trong đời sống hòa bình, vấn đề cá nhân sẽ nổi lên như đề tài lớn nhất của nghệ thuật. Mỗi người sẽ đi vào cái riêng tư và có cách nhìn cuộc sống đa dạng. Vì thế, nghệ thuật cũng phải điều chỉnh để phù hợp với tâm lý thưởng thức của công chúng. Người nghệ sĩ phải khám phá những vẻ đẹp tinh tế của cuộc sống con người và tái hiện những vẻ đẹp ấy trong tác phẩm nghệ thuật. Qua những vẻ đẹp ấy, nghệ thuật sẽ mang lại sự bình an, thư thái trong tâm hồn con người, sẽ bồi đắp tình thương yêu, tinh thần trách nhiệm với đồng loại.
Với cách nhìn ấy, chúng ta sẽ thấy, bằng nhiều cách khác nhau, dưới những hình thức đa dạng, người nghệ sĩ vẫn đồng hành cùng nhân dân mình, dù đôi khi lặng lẽ và không phải lúc nào cũng được thấu hiểu.
Tuy nhiên, cuộc sống không phải lúc nào cũng màu hồng. Thực tế đang đặt ra những vấn đề gai góc hiểm nghèo mà nghệ sĩ không thể đứng ngoài, không thể thờ ơ. Chẳng hạn như công cuộc chống tham nhũng hiện nay đang được đặt ra như một nhiệm vụ then chốt và cấp bách; sự tha hóa đạo đức xã hội tràn lan; sự đảo lộn các giá trị truyền thống... Tôi nghĩ rằng, thời nào cũng vậy, tính chiến đấu của nghệ thuật là một yếu tố không thể bỏ qua. Nghệ thuật vừa sáng tạo nên cái đẹp bồi dưỡng tâm hồn con người, nhưng cũng phải chiến đấu chống lại sự xấu xa, tệ hại đang lũng đoạn, đang kéo lùi sự tiến bộ xã hội. Với cách nhìn ấy, rõ ràng, chúng ta phải khuyến khích và phải tạo điều kiện nhiều hơn nữa để người nghệ sĩ tham gia vào đời sống.
Nếu nghệ thuật không góp phần vào giải quyết những vấn đề của đời sống, nếu chỉ chạy theo những mộng tưởng riêng tư của người nghệ sĩ mà rời bỏ trách nhiệm với cộng đồng thì đó không phải là nghệ thuật đích thực và sẽ đánh mất vai trò vinh quang mà xã hội dành cho nó.
PV: Xin cảm ơn anh về cuộc trò chuyện này!
Việt Linh (thực hiện)