Theo ông Lê Đức Thịnh - Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn cho biết, sau 4 năm triển khai Đề án đã tạo chuyển biến rõ nét về quy mô sản xuất và tổ chức vùng nguyên liệu tại 11 tỉnh tham gia. Tổng diện tích vùng nguyên liệu đến nay đạt 169.800 ha, tăng 33.800 ha (tăng 20%) so với trước dự án 136.000 ha.
Sáng 19/12, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội nghị Tổng kết Đề án thí điểm xây dựng vùng nguyên liệu nông, lâm sản đạt chuẩn phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu giai đoạn 2022-2025. Ảnh: Minh Ngọc
Trong đó, diện tích vùng nguyên liệu có liên kết tiêu thụ với doanh nghiệp đạt gần 121.000 ha (chiếm 71,2% tổng diện tích vùng nguyên liệu); so với thời điểm trước khi triển khai Đề án chỉ đạt 17.000 ha. Trong các vùng nguyên liệu, hơn 123 HTX mới được thành lập và củng cố lại, nâng tổng số HTX tham gia vùng nguyên liệu là 393 HTX; trên 5.500 lượt cán bộ quản lý HTX và thành viên HTX được đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực, ứng dụng phần mềm kế toán HTX, phần mềm truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
Trong giai đoạn triển khai Đề án, các địa phương đã đẩy mạnh cấp và quản lý mã số vùng trồng làm cơ sở xuất khẩu chính ngạch. Điển hình như tỉnh Sơn La đã duy trì 214 mã số vùng trồng, diện tích 2.878 ha; tỉnh Tây Ninh (Long An trước kia) được phê duyệt 35 mã số, diện tích 592,6 ha; tỉnh Đồng Tháp (Tiền Giang trước kia) cấp 350 mã số vùng trồng, diện tích 20.584 ha (37,2% diện tích chủ lực); tỉnh Quảng Trị tiếp tục duy trì các mã số FSC/CoC gắn với chuỗi gỗ lớn phục vụ xuất khẩu;
Tỉnh Đắk Lắk tăng số vùng cà phê đạt chứng nhận chỉ dẫn địa lý và tiêu chuẩn xuất khẩu, qua đó mở rộng mã vùng nguyên liệu theo chuỗi cà phê đặc sản. Việc cấp mã số vùng trồng đã góp phần đáp ứng yêu cầu nghiêm ngặt của các thị trường (Trung Quốc, EU, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, New Zealand,...), nâng cao tính minh bạch và chuẩn hóa sản xuất vùng nguyên liệu.
Bên cạnh đó, theo ông Thịnh, các địa phương đã xây dựng được hơn 90 chuỗi liên kết, tăng 65 chuỗi so với thời điểm ban đầu triển khai Đề án (tháng 2/2022). Có tổng số 27 doanh nghiệp, nhà máy thu mua, chế biến nông sản tham gia liên kết thay vì 11 doanh nghiệp ban đầu.
Ông Thịnh khẳng định, Đề án đã đã mang lại hiệu quả và tác động lan tỏa rất lớn. HTX nông nghiệp từ “đơn vị sản xuất” thành “trung tâm liên kết và điều phối chuỗi giá trị”; Doanh nghiệp từ “đơn vị thu mua” thành “đầu tàu chế biến - tiêu thụ - xuất khẩu”; Vùng nguyên liệu từ “vùng sản xuất đơn lẻ” thành “vùng hạt nhân kết nối chuỗi giá trị”, kết nối sản xuất, logistics, chế biến, thương mại.
Thông qua Đề án, tỷ lệ nông sản tiêu thụ qua HTX tăng từ 35% lên 57%; trên 60 chuỗi liên kết sản xuất - chế biến - tiêu thụ được hình thành, trong đó 25 chuỗi có hợp đồng bao tiêu dài hạn; giao dịch nông sản minh bạch hơn, chi phí giảm 20-30%, năng suất tăng 10-15%.
Phát biểu tại Hội nghị, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La Nguyễn Thành Công khẳng định, Đề án đã góp phần giúp Sơn La xây dựng và hình thành vùng nguyên liệu cây ăn quả; mở rộng diện tích áp dụng các tiêu chuẩn sản xuất, chứng nhận vùng trồng xuất khẩu, liên kết hợp tác xã, doanh nghiệp.
Tỉnh Sơn La có 202 mã số vùng trồng cây ăn quả xuất khẩu với tổng diện tích là 2.803,15 ha.
Tỉnh Sơn La cũng đã phát triển nhiều vùng nguyên liệu tập trung, việc cấp mã số vùng trồng, xây dựng HTX, ứng dụng mô hình sản xuất an toàn đáp ứng các tiêu chuẩn như VietGAP và tương đương được triển khai, mang lại hiệu quả nhất định như năng suất cao hơn, nhiều sản phẩm được thị trường chấp nhận (tỉnh đã xây dựng được nhiều vùng trồng cây ăn quả xuất khẩu, hiện nay tỉnh có 202 mã số vùng trồng cây ăn quả xuất khẩu với tổng diện tích là 2.803,15 ha).
Đồng thời, Sơn La đã thu hút được nhiều nhà máy chế biến nông sản trên địa bàn, giải quyết được một phần bài toán về tiêu thụ nông sản cho người dân, hình thành nhiều mối liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp, hợp tác xã với người dân trong chuỗi giá trị sản xuất giúp người dân yên tâm sản xuất; giải quyết được lao động cho địa phương.
Ông Trần Thanh Hiệp, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang cho hay, thực hiện Đề án, tỉnh đã xây dựng được các vùng nguyên liệu về lúa gạo, cây ăn trái, liên kết theo mô hình cánh đồng lớn. Thực hiện Đề án thí điểm xây dựng vùng nguyên liệu nông, lâm sản đạt chuẩn phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu giai đoạn 2022-2025, tỉnh An Giang đã xây dựng được các vùng nguyên liệu về lúa gạo, cây ăn trái, liên kết theo mô hình cánh đồng lớn.
Kết luận Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam đề nghị các địa phương tiếp tục duy trì các kết quả đạt được. Đồng thời, quan tâm, tiếp thực thực hiện Đề án, đảm bảo các tiêu chuẩn.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam phát biểu khai mạc Hội nghị. Ảnh: Minh Ngọc.
Ông Nam cho rằng, giai đoạn tới sẽ không triển khai "Đề án thí điểm", thay vào đó, Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn cần phối hợp với các đơn vị của Bộ, các địa phương để xây dựng, mở rộng vùng nguyên liệu, đưa các cây, con chủ lực vào sản xuất, phục vụ xuất khẩu.
Hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã ban hành Quyết định số 1586/QĐ-BNNMT ngày 22/05/2025 về Kế hoạch Đẩy nhanh thực hiện, đánh giá kết quả “Đề án thí điểm xây dựng vùng nguyên liệu nông, lâm sản đạt chuẩn phục vụ chế biến và tiêu thụ giai đoạn 2022 - 2025”, đề xuất nhân rộng và xây dựng Đề án cho giai đoạn 2026 - 2030.
Theo đó, mở rộng diện tích 5 vùng nguyên liệu tại 13 tỉnh đã tham gia Đề án thí điểm giai đoạn 2022-2025 theo Quyết định số 1088/QĐ-BNN-KTHT ngày 25/3/2022 lên 1.829.161 ha (giai đoạn 2022-2025 là 166.800 ha), trong đó 100% diện tích có hợp đồng liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm với doanh nghiệp.
Nhân rộng và phát triển các vùng nguyên liệu nông sản hàng hóa khác trên địa bàn cả nước theo hướng bền vững, thân thiện với môi trường, đáp ứng tiêu chuẩn phục vụ chế biến nông sản trong nước và quốc tế, trong đó tập trung vào các địa phương có vùng nguyên liệu sản phẩm nông sản chủ lực của quốc gia, của vùng và địa phương có lợi thế cạnh tranh.
T.Linh