Các lực lượng vũ trang giải phóng tiến vào cửa Ngọ Môn (Huế) sáng 26/3/1975. Ảnh tư liệu
Cuộc tiến công giải phóng Huế - Đà Nẵng lâu nay được coi là một chiến dịch, được hình thành trong quá trình phát triển của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975. Có không ít ý kiến cho rằng nên coi đây là “Đòn tiến công chiến lược Huế - Đà Nẵng” vì thực chất “đòn chiến lược” này bắt đầu và tiếp nối kết quả của 2 chiến dịch nhỏ (chiến dịch Trị -Thiên và chiến dịch Nam - Ngãi).
Theo nghiên cứu của Đại tá, Tiến sĩ Lê Đình Sỹ, nguyên Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, những ý kiến xung quanh vấn đề này đã được nhiều tướng lĩnh và chuyên gia khoa học quân sự thảo luận và có những thống nhất căn bản về nội hàm khái niệm.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho rằng cuộc tiến công giải phóng Huế, Đà Nẵng nên tách thành 3 chiến dịch cho đúng với thực tiễn lịch sử đã diễn ra trên chiến trường. Đại tướng nhấn mạnh: “Có chỉ thị mở chiến dịch Trị - Thiên do Quân khu Trị - Thiên và Quân đoàn 2 tiến hành. Có chỉ thị mở chiến dịch Đà Nẵng. Hai chiến dịch có Tư lệnh riêng và kế tiếp nhau liên tục. Đây là một đòn tiến công chiến lược. Trong Xuân 1975 có 3 đòn tiến công chiến lược riêng: Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng và giải phóng Sài Gòn” (1).
Đại tướng Phạm Văn Trà, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đã nhấn mạnh việc nghiên cứu, tổng kết chiến dịch trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ phải tôn trọng thực tiễn trong công tác lãnh đạo, chỉ huy và chiến đấu ở chiến trường.
Ông chỉ rõ: “Thực tiễn diễn ra ở cơ quan lãnh đạo chỉ huy từ Bộ Chính trị, Trung ương Đảng đến Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh và thực tiễn diễn ra ở chiến trường. Cuộc Tổng tiến công chiến lược Xuân 1975 gồm 3 đòn tấn công chiến lược. Đòn thứ 2 gồm 3 chiến dịch: Chiến dịch Trị - Thiên, chiến dịch Nam - Ngãi và chiến dịch giải phóng Đà Nẵng” (2).
Đại tướng Chu Huy Mân, nguyên Chính ủy, Bí thư Đảng ủy mặt trận Quảng Đà, Thiếu tướng Lê Tự Đồng, nguyên Bí thư Khu ủy Trị - Thiên, Bí thư Đảng ủy mặt trận Trị - Thiên, Thượng tướng Nguyễn Chơn, nguyên Sư trưởng Sư đoàn 2 trực tiếp chỉ huy tấn công chiến dịch Nam - Ngãi đều nhất trí tách ra 3 chiến dịch như trên. Thiếu tướng Hoàng Đan cũng khẳng định rằng sau thắng lợi chiến dịch Trị - Thiên - Huế và Nam - Ngãi, ngày 25-3 ta mới có quyết tâm giải phóng Đà Nằng. Chiến dịch Trị - Thiên - Huế và chiến dịch Nam - Ngãi xảy ra đồng thời. Chiến dịch kế tiếp là giải phóng Đà Nẵng (3).
Từ những quan điểm có tính phương pháp luận, tôn trọng thực tiễn khách quan của lịch sử như nó từng xảy ra, chúng tôi khảo cứu những nguồn tài liệu gốc để có thêm cơ sở khoa học cho những nhận thức mới. Tại Kết luận đợt 2 Hội nghị Bộ Chính trị ngày 7/1/1975, nhiệm vụ của chiến trường Khu V và chiến trường Trị -Thiên được xác định là: “Sử dụng lực lượng Quân khu V và lực lượng quân sự, chính trị các tỉnh ven biển miền Trung, giải phóng từ Bình Định trở ra để ép về phía Đà Nẵng. Chiến trường Trị - Thiên, đánh chiếm đồng bằng, làm chủ vững chắc từ nam thành Huế trở ra, chia cắt Huế với Đà Nẵng” (4).
Triển khai nhiệm vụ đó, ngày 8/2/1975 Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 2328/NQ-NS/TW về việc thành lập Đảng ủy mặt trận Trị -Thiên. Đồng chí Lê Tự Đồng được chỉ định làm Bí thư Đảng ủy mặt trận. Hội nghị Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương ngày 18/3/1975 đã quyết tâm chuyển cuộc tiến công chiến lược thành cuộc Tổng tiến công chiến lược, hoàn thành kế hoạch giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975. “Trước mắt nhanh chóng tiến công tiêu diệt bằng được toàn bộ lực lượng địch trong Vùng I chiến thuật từ Quảng trị đến Quảng Ngãi, giải phóng Huế - Đà Nẵng” (5).
Chiến dịch Trị - Thiên thực tế diễn ra từ ngày 5 đến ngày 26/3/1975 trên địa bàn tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên, trong đó Huế là mục tiêu chiến lược. Lực lượng chủ lực của Quân đoàn 2 và bộ đội địa phương tiến hành chiến đấu làm tan rã lực lượng chủ lực ngụy, loại khỏi vòng chiến đấu 30.000 tên địch, giải phóng 70 vạn dân, thay đổi tương quan lực lượng có lợi cho ta.
Mặt trận Nam - Ngãi do đồng chí Chu Huy Mân làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy. Chiến dịch diễn ra đồng thời với chiến dịch Trị - Thiên trên địa bàn tỉnh Quảng Đà, Quảng Nam, Quảng Ngãi. Lực lượng chủ lực quân khu V và bộ đội địa phương đã làm tan rã Sư đoàn 2 ngụy, thu và phá hủy khối lượng vật chất, vũ khí khổng lồ, chọc thủng tuyến phòng thủ ven biển miền Trung, đẩy căn cứ quân sự liên hợp Đà Nẵng vào thế bị bao vây, uy hiếp. Chiến thắng đó cùng mặt trận Trị - Thiên dồn địch về Đà Nẵng trong thế bị bao vây, cô lập và hoang mang cực độ.
Những thắng lợi liên tiếp của quân dân ta ở trong chiến dịch Trị - Thiên (giải phóng Quảng Trị ngày 19-3, Huế ngày 25-3) và Chiến dịch Nam - Ngãi (Giải phóng Tam Kỳ ngày 24-3, Quảng Ngãi ngày 25-3, bao vây Chu Lai ngày 26-3) buộc địch dồn về co cụm ở Đà Nẵng trong thế bị bao vây tuyệt vọng. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh cho Tướng Ngô Quang Trưởng cố thủ Đà Nẵng bằng mọi giá, nhưng hơn 10 vạn sĩ quan, binh lính ngụy ở đây đang hoang mang cực độ khiến cho mệnh lệnh "tử thủ" trở nên vô hiệu. Bộ Chính trị nhận định, địch cố muốn giữ Đà Nẵng cũng không thể được, do vậy cần mở cuộc tấn công Đà Nẵng với tư tưởng chỉ đạo "táo bạo, bất ngờ, kịp thời, chắc thắng".
Ngày 25/3/1975 Bộ, tư lệnh mặt trận Đà Nẵng được thành lập do đồng chí Lê Trọng Tấn làm tư lệnh, đồng chí Chu Huy Mân làm Chính ủy. Kế hoạch tiến công giải phóng Đà Nẵng được thông qua. Bộ Chính trị nhấn mạnh: “Ta phải tập trung lực lượng từ hai phía, từ Thừa thiên - Huế đánh vào, từ Nam Ngãi đánh ra, nhanh chóng tiêu diệt toàn bộ sinh lực địch, không cho chúng co cụm về giữ Sài Gòn. Trong lúc này, thời gian là lực lượng” (6).
Sự chỉ đạo kịp thời của Trung ương Đảng đã làm cho sức mạnh tấn công của lực lượng chủ lực mặt trận Đà Nẵng được phát huy triệt để. Từ ngày 26 đến 29-3, quân ta từ các hướng đồng loạt tấn công làm tan rã toàn bộ lực lượng địch, giải phóng hoàn toàn thành phố Đà Nẵng.
Như vậy, Chiến dịch Đà Nẵng là chiến dịch đặc biệt được tổ chức trong quá trình phát triển của cuộc Tổng tiến công chiến lược Xuân 1975. Đây là chiến dịch độc lập kế tiếp từ thắng lợi của 2 chiến dịch Nam - Ngãi và chiến dịch Trị - Thiên. Chiến dịch Đà Nẵng có quyết định thành lập riêng, có Bộ Chỉ huy chiến dịch riêng, mục tiêu chiến lược riêng, phát triển độc lập ở địa bàn riêng. Do đó, việc ghép mục tiêu chiến lược của chiến dịch Trị - Thiên (giải phóng cố đô Huế, cắt đứt liên lạc Huế với Đà Nẵng) với mục tiêu chiến lược của chiến dịch Đà Nẵng (giải phóng thành phố Đà Nẵng, căn cứ quân sự liên hợp lớn nhất miền Nam của chính quyền Sài Gòn) thành “chiến dịch Huế - Đà Nẵng” là khiên cưỡng.
Trên thực tế không có quyết định mở Chiến dịch Huế - Đà Nẵng và thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch vì tên gọi của chiến dịch này chỉ được hình thành từ kết quả nghiên cứu và phản ánh nội dung lịch sử sau những diễn biến của cuộc chiến. Chỉ có quyết định mở Chiến dịch Trị - Thiên và Chiến dịch Đà Nẵng cùng với Bộ Chỉ huy của mỗi chiến dịch vì đây là sự tiếp nối 2 chiến dịch trong thế trận liên hoàn.
Chiến dịch Đà Nẵng chỉ có được dựa trên kết quả thắng lợi của 2 chiến dịch Trị - Thiên và Chiến dịch Nam - Ngãi. Do quan niệm về “Chiến dịch Huế - Đà Nẵng” còn những bất cập nói trên, mốc thời gian diễn ra chiến dịch cũng được trình bày khác nhau ở nhiều tài liệu giáo khoa (từ ngày 21 đến 29/3/1975) (7) và giáo trình (từ 21/3/1975 đến 3/4/1975) (8)…
Đây cũng là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu và thống nhất về mặt nhận thức lại sự kiện lịch sử. Những tư tưởng chỉ đạo, những kết quả nghiên cứu khoa học, khách quan về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 sẽ góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận chiến tranh nhân dân của Việt Nam trong lịch sử và thời kì hội nhập của kỷ nguyên mới.
(1), (2), (3) Việt Nam những chặng đường lịch sử 1954-1975; 1975-2005; Nxb Giáo dục 2005; tr215 - 216; 216-217.
(4), (6) Văn kiện Đảng, Toàn tập, T36, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2024, tr 8; 89.
(5) Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng hành dinh trong mùa Xuân toàn thắng, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2000, tr 226.
(7) Đỗ Thanh Bình (Tổng chủ biên), Lịch sử 12, NXB Đại học Sư phạm, HN 2023, tr 49
(8) Lê Mậu Hãn (Chủ biên), Đại cương Lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục, HN, 2000, tr 262.
PGS. TS. Đỗ Hồng Thái, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên