Người ta đến, người ta chi tiêu, người ta thổi luồng gió mới vào nền kinh tế hậu đại dịch Covid-19 cho Nhật Bản.
Trong khi phần lớn châu Á chật vật thu hút lượng khách du lịch tương đương trước đại dịch Covid-19, Nhật Bản đạt kỷ lục đón 36,9 triệu du khách vào năm 2024. Theo Channel NewsAsia, khách du lịch chi tiêu 55 tỷ USD, mức cao nhất mọi thời đại. Nửa đầu năm 2025 lại chứng kiến một kỷ lục khác với 21,5 triệu người ghé thăm Nhật Bản.
Mọi người không chỉ tìm đến những khu phố rực rỡ ở Tokyo hay những ngôi đền ở Kyoto. Tại thành phố ven biển Kamakura có 170.000 dân, trung bình mỗi ngày có gần 44.000 người ghé thăm, biến nơi đây thành thành phố đông du khách nhất Nhật Bản.
“Dù ở đâu, ngay cả trong những con phố nhỏ, luôn có người qua lại. Hầu hết là người nước ngoài”, ủy viên hội đồng thành phố Ayako Maekawa, 65 tuổi, cho biết.
Một số người dân địa phương coi bùng nổ du lịch là nỗi ám ảnh kinh hoàng.
“Nhiều du khách đứng ra giữa đường rồi chụp một đống ảnh. Tôi phải bấm còi xe họ mới di chuyển”, một cư dân tên Kamakura kể.
Bà Maekawa nói thêm xe buýt công cộng chật cứng du khách đến nỗi “những cụ bà muốn đến bệnh viện vào buổi sáng thậm chí không còn chỗ để lên”.
Mối lo ngại về tình trạng quá tải du lịch lan rộng ở nhiều khu vực khác. Trong khảo sát năm 2024 của Ernst & Young (EY) tại 10 điểm du lịch nổi tiếng, khoảng 50% số người được hỏi cảm nhận được tác động của quá tải du lịch. Tại Kyoto, chính quyền hạn chế du khách tiếp cận khu Gion nổi tiếng. Ở thị trấn Fujikawaguchiko, giới chức dựng tạm một tấm rèm đen che tầm nhìn ra núi Phú Sĩ.
Tuy nhiên, Nhật Bản có một mối quan hệ phức tạp với khách du lịch. Chính phủ đang đặt mục tiêu đón 60 triệu khách mỗi năm vào năm 2030. Theo nghiên cứu của Hội đồng Du lịch và Lữ hành Thế giới, du lịch chiếm 7,3% tổng sản phẩm quốc nội của Nhật Bản vào năm 2024, đồng thời sử dụng gần 9% lực lượng lao động.
"Cái giá" của sự nổi tiếng
Ngoài cảnh đẹp, đất nước Mặt trời mọc còn thu hút khách du lịch nhờ đồng yen yếu, sự trỗi dậy của hàng không giá rẻ cùng chính sách miễn thị thực.
Tuy nhiên, cái gì cũng có hai mặt. Chris McMorran - Phó giáo sư nghiên cứu Nhật Bản tại Đại học Quốc gia Singapore - lấy ví dụ về tình trạng chen chúc trên các phương tiện giao thông công cộng, phổ biến nhất ở Kyoto.
“Có người từng nói họ phải đợi tới 30 phút để bắt xe buýt về nhà. Những người có sức ảnh hưởng trên mạng xã hội có thể biến bất cứ ngóc ngách nào thành hiện tượng chỉ sau một đêm, thu hút du khách ồ ạt tới địa điểm đó”, ông McMorran nói.
Ngay cả du khách cũng cảm thấy ngộp thở. 32% trong số 7.800 du khách khó chịu với tình trạng tắc nghẽn tại các điểm du lịch, theo khảo sát do Ngân hàng Phát triển Nhật Bản và Quỹ Du lịch Nhật Bản thực hiện vào năm 2024.
Du lịch bùng nổ tác động cả đảo Miyako - cách Okinawa khoảng 300km về phía tây nam. Giá thuê nhà bị đẩy lên cao trong thập niên qua, khiến người dân địa phương ngày càng khó sống.
Du lịch Nhật Bản bùng nổ hậu đại dịch Covid-19. Ảnh: Reuters.
Ngoài ra, quá tải du lịch còn dẫn tới xung đột văn hóa. Nhật Bản là nền văn hóa “giàu ngữ cảnh”, tức giao tiếp xã hội “nói một hiểu mười”, phụ thuộc rất nhiều vào các chuẩn mực xã hội và quy ước ngầm. Không phải du khách nước ngoài nào cũng hiểu.
Ví dụ, kéo hành lý qua những con phố đông đúc hoặc lên phương tiện giao thông công cộng có vẻ vô hại, thậm chí cần thiết với người nước ngoài. Tuy nhiên, với người Nhật, hành động này cản trở lối đi, dễ làm người khác vấp ngã hoặc làm chậm quá trình chuyển tàu.
“Người Nhật cho rằng không nên kéo hành lý trong không gian kín, vì nó giống đi giày trong nhà vậy. Mọi người Nhật đều ngầm hiểu thế, nhưng không phải du khách quốc tế nào cũng biết”, ông McMorran nói.
Tiếng nói chuyện ồn ào cũng gây khó chịu. Hiroshi Mizutani - người điều hành một công ty du lịch - từng phải hộ tống một khách hàng xuống khỏi khoang hạng nhất trên tàu cao tốc vì người này nói chuyện điện thoại rất to.
Tại các cơ sở kinh doanh, việc quán ưu tiên phục vụ khách địa phương không lạ.
“Không phải tôi không thích khách nước ngoài. Ngược lại, nói chuyện với họ rất vui. Nhưng họ không phải khách quen. Người địa phương ở đây quan trọng với tôi hơn”, Toyoko Mimura - 86 tuổi, chủ một quán ăn ở Tokyo - chia sẻ.
Hồi năm 2024, mạng xã hội lan truyền chóng mặt bức ảnh chụp một nhà hàng ở Kyoto treo biển “hết chỗ” bằng tiếng Anh và “mời vào” bằng tiếng Nhật.
Những khác biệt về văn hóa khiến tình hình thêm căng thẳng. Tính đến tháng 3, Đền Watatsumi ở Nagasaki cấm tất cả khách du lịch vì “hành vi thiếu tôn trọng nghiêm trọng và không thể tha thứ" song không đưa thêm thông tin cụ thể.
Khảo sát của EY cho thấy 62% người dân địa phương kêu gọi khách du lịch cải thiện cách ứng xử để giải quyết những vấn đề bắt nguồn từ tình trạng quá tải du lịch.
Vẫn mở cánh cửa chào đón khách
Mặc dù khách du lịch ồ ạt đổ tới Nhật Bản, số lượng phân bổ không đồng đều. Năm 2024, hơn 50% du khách ghé thăm Tokyo, trong khi chỉ có 0,2% lượng khách ghé Shimane.
Nhiều nơi mong muốn được hưởng lợi từ lượng khách kỷ lục đang tới xứ sở hoa anh đào. Ngoài ra, sự hồi sinh của ngành du lịch có thể cứu cánh cho vùng nông thôn Nhật Bản, tạo việc làm cho người trẻ quay trở về ở các tỉnh hẻo lánh.
“Tôi học ngành du lịch. Khách sạn này được xây dựng như một cách dùng du lịch để phát triển làng. Tôi rất ấn tượng cách nhân viên làm việc cùng người dân địa phương. Tôi muốn đóng góp cho làng của mình theo cách này”, Takuma Furuya - quản lý khách sạn Nipponia Kosuge Village ở tuổi 25 - chia sẻ.
Hiện nay, khách sạn thu về khoảng 30 triệu yen hàng năm từ du khách nước ngoài. Hơn 90% trong số 2.000 khách lần đầu nghe về làng Kosuge thông qua khách sạn.
“Lượng khách du lịch gia tăng là dấu hiệu rất tích cực, giúp kết nối ngôi làng với thế giới”, Furuya nói thêm.
Trên khắp cả nước, chi tiêu của du khách nước ngoài tăng gấp 5 lần trong 10 năm, vượt qua chất bán dẫn và thép trở thành mặt hàng xuất khẩu lớn thứ hai. Thách thức hiện nay - với cả Nhật Bản và thế giới - chính là tính bền vững.
Nhật Bản đạt kỷ lục đón 36,9 triệu du khách vào năm 2024. Ảnh: Kyodo News.
Để giảm bớt tình trạng quá tải, nhiều điểm tham quan đã áp dụng hệ thống đặt chỗ trực tuyến, loại bỏ tình trạng xếp hàng chờ mua vé và cho phép du khách khám phá các điểm dừng chân khác trong lúc chờ đợi. Một số địa điểm nổi tiếng thu phí và giới hạn lượng khách tham quan hàng ngày.
Đường mòn Yoshida lên đỉnh núi Phú Sĩ hiện chỉ đón 4.000 người leo núi mỗi ngày. Du khách phải trả 4.000 yen và hoàn thành một khóa học ngắn về an toàn và nghi thức. Số tiền thu được dùng để bảo trì và duy trì nhân sự.
“Việc giảm lượng du khách, giảm thiểu gánh nặng lên môi trường và bảo tồn cảnh quan của trạm số 5 sẽ hướng tới du lịch bền vững trên núi Phú Sĩ”, ông Yoshiyuki Koizumi - Tổng giám đốc Sở Du lịch, Văn hóa và Thể thao tỉnh Yamanashi - cho biết.
Trạm số 5 là điểm cao nhất tại núi Phú Sĩ du khách có thể di chuyển tới bằng ôtô. Ông Koizumi nói các biện pháp kiểm soát cũng nhằm mục đích “truyền lại những giá trị của núi Phú sĩ cho thế hệ tương lai”.
Cơ quan Du lịch Nhật Bản đã và đang thúc đẩy các quy tắc ứng xử du lịch đúng mực, trong khi một số thành phố tích cực phổ biến hướng dẫn cho du khách.
“Nhật Bản cần thời gian thích nghi với làn sóng du khách, điều chưa từng xảy ra trong 20-30 năm qua. Trong sâu thẳm, chúng tôi cảm thấy thật tuyệt khi mọi người từ khắp nơi ghé thăm Nhật Bản”, Kazuki Fukui - Phó giáo sư địa lý tại Đại học Ryutsu Keizai - kết luận.
Trí Ân