Nhiều chính sách mới dành cho người lao động

Nhiều chính sách mới dành cho người lao động
10 giờ trướcBài gốc
Trước khi tiến hành biểu quyết, báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc tiếp thu, giải trình và chỉnh lý dự thảo Luật cho biết, so với dự thảo Luật trình Quốc hội đầu Kỳ họp thứ 9, dự thảo Luật hoàn thiện bao gồm 08 chương, 55 Điều (giảm 03 điều).
Cụ thể, về chính sách của Nhà nước về việc làm (Điều 4), dự thảo Luật quy định các chính sách hỗ trợ việc làm cho tất cả người lao động, không có sự phân biệt; Các chính sách hỗ trợ việc làm đối với người khuyết tật; người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; cán bộ, công chức, viên chức bị ảnh hưởng bởi sắp xếp tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị … đã được quy định tại Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017, Luật Người khuyết tật năm 2010, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2020, pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức, về lao động, về giáo dục nghề nghiệp, về thuế thu nhập doanh nghiệp và pháp luật khác có liên quan.
Về đối tượng vay vốn chính sách hỗ trợ tạo việc làm (Chương II), một số ý kiến đề nghị mở rộng hoặc ưu tiên vay vốn tại Điều 9 đối với các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh sử dụng nhiều lao động nữ hoặc do phụ nữ làm chủ; sử dụng nhiều lao động là người cao tuổi; doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo. Có ý kiến đề nghị mở rộng đối tượng được vay vốn hỗ trợ tạo việc làm, duy trì, mở rộng việc làm và đi làm việc ở nước ngoài với lãi suất ưu đãi, ví dụ như: người thuộc hộ mới thoát nghèo, người thuộc hộ cận nghèo; người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo ở vùng đặc biệt khó khăn; lao động tự do, lao động phi chính thức, lao động trên nền tảng số…
Quốc hội đã thông qua dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi) với nhiều điểm mới.
Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, dự thảo Luật đã chỉnh lý theo hướng giao Chính phủ, căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội và yêu cầu cho vay vốn giải quyết việc làm, để quyết định mở rộng đối tượng được vay với mức lãi suất thấp hơn và thể hiện tại điểm đ khoản 3 Điều 9 và điểm c khoản 4 Điều 9.
Về mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng, có ý kiến đề nghị nâng mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng lên tối thiểu 65% và cho phép Chính phủ điều chỉnh tăng lên tối đa 75% trong trường hợp khủng hoảng kinh tế, dịch bệnh quy mô lớn. Có ý kiến đề nghị tăng mức hưởng lên 70% nhưng không quá 05 lần mức lương tối thiểu vùng và cứ mỗi 06 tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp thì được hưởng thêm 01 tháng trợ cấp thất nghiệp nhưng tối đa không quá 12 tháng.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo rà soát và thấy rằng, việc Quỹ bảo hiểm thất nghiệp kết dư thời gian qua chủ yếu được tích lũy từ giai đoạn trước, do được Ngân sách nhà nước hỗ trợ hằng năm, khi đó, số đối tượng thụ hưởng các chế độ còn ít. Nhưng từ năm 2020 đến nay thì số thu và chi bảo hiểm thất nghiệp hằng năm là cân bằng nhau.
Theo kinh nghiệm của các quốc gia thực hiện thành công chính sách bảo hiểm thất nghiệp hoặc bảo hiểm việc làm (Canada, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan…) và quy chuẩn quốc tế về bảo hiểm thất nghiệp thì mức trợ cấp thất nghiệp không ít hơn 45% của thu nhập trước đó hoặc không ít hơn 45% của tiền lương tối thiểu theo quy định hoặc của tiền lương của người lao động bình thường nhưng không ít hơn mức sống cơ bản tối thiểu; thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp tối thiểu là 12 tuần (03 tháng) trong thời kỳ 12 tháng.
Bộ luật Lao động (Điều 47 và Điều 48) quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên (mỗi năm làm việc được trợ cấp ½ tháng tiền lương (50% mức tiền lương)) và trợ cấp mất việc làm cho người lao động đã làm việc thường xuyên cho mình từ 12 tháng trở lên (mỗi năm làm việc trả 01 tháng tiền lương (100% mức tiền lương)) nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương (tối thiểu 200% mức tiền lương).
Mức hưởng là 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp trong 03 tháng tương đối phù hợp với thông lệ quốc tế và các mức trợ cấp mà người lao động được nhận khi mất việc làm theo quy định hiện hành. Mức này bảo đảm cho người lao động giảm bớt khó khăn, ổn định cuộc sống trong thời gian thất nghiệp cho tới khi tìm được việc làm mới; phù hợp với nguyên tắc đóng - hưởng và khả năng cân đối thu chi của Quỹ bảo hiểm thất nghiệp. Do vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin được giữ như dự thảo Luật.
Về hiệu lực thi hành (Điều 54), Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo bổ sung thời điểm có hiệu lực của Luật từ ngày 01/01/2026 tại khoản 1 Điều 54 dự thảo Luật.
Trà My
Nguồn CA TP.HCM : http://congan.com.vn/tin-chinh/nhieu-chinh-sach-moi-danh-cho-nguoi-lao-dong_179296.html