Hiệu quả trồng dứa cao gấp nhiều lần trồng keo
Dù hiện chưa bước vào chính vụ, nhưng nhiều bụi dứa tại xã Thượng Đức, tỉnh Hà Tĩnh đã bói quả trái vụ, trọng lượng từ 1,6 - 2kg/quả. Khi vào chính vụ, mỗi quả có thể đạt từ 2 - 3kg. Năng suất sơ bộ ước đạt khoảng 60 tấn/ha.
Việt Nam xếp thứ 11 thế giới về sản lượng dứa. Ảnh minh họa
Với giá thu mua thấp nhất theo hợp đồng đã ký với Công ty CP Thực phẩm Xuất khẩu Đồng Giao (DOVECO) là 5.500 đồng/kg, tổng doanh thu đạt khoảng 330 triệu đồng/ha. Sau khi trừ chi phí, nông dân vẫn có thể thu về tối thiểu 200 triệu đồng/ha.
Bà Nguyễn Thị Việt Hà, Bí thư Đảng ủy xã Thượng Đức, tỉnh Hà Tĩnh cho hay, so sánh với cây keo, một loại cây trồng phổ biến tại địa phương, lợi thế của cây dứa là rất rõ ràng. Keo phải trồng từ 5 - 7 năm mới thu hoạch, với tổng giá trị khoảng 100 triệu đồng/ha, sau khi trừ chi phí chỉ còn khoảng 60 triệu. Trong khi đó, dứa cho hiệu quả kinh tế cao gấp ba lần chỉ trong thời gian ngắn hơn rất nhiều.
Trong bức tranh toàn cầu, sản lượng dứa thế giới đã tăng trưởng ổn định, đạt gần 30 triệu tấn vào năm 2024. Việt Nam, với sản lượng 760.000 tấn vào năm 2024, đã khẳng định vị thế của mình, xếp thứ 11 thế giới về sản lượng.
Dù thị phần xuất khẩu còn khiêm tốn, Việt Nam vẫn được đánh giá là quốc gia có tiềm năng lớn để mở rộng thị trường. Các chuyên gia chỉ ra rằng, dứa là một mặt hàng có giá trị cao, đặc biệt khi được chế biến sâu, giúp nâng cao đáng kể giá trị xuất khẩu.
Thị trường dứa toàn cầu đang tăng trưởng 5 - 6% mỗi năm, với nhu cầu về các sản phẩm chế biến như nước ép và dứa đóng hộp tăng mạnh. Việt Nam hiện đang canh tác ba giống dứa phổ biến: Queen, Cayenne và MD2. Trong đó, giống dứa MD2, với năng suất và chất lượng vượt trội, chiếm tới 50 - 55% thị phần dứa toàn cầu và 70 - 75% thị phần tại thị trường EU.
Hiệu quả kinh tế của việc trồng dứa trên quy mô 1 ha trong chu kỳ 18 tháng, cho thấy lợi nhuận từ cây dứa cao hơn nhiều so với các loại cây trồng khác. Cụ thể, lợi nhuận của dứa MD2 có thể lên tới hơn 700 triệu đồng, cao hơn gấp nhiều lần so với cây lúa, sắn và keo.
Ông Đinh Cao Khuê, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc DOVECO cho rằng, ngành dứa Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để trở thành mặt hàng nông sản chủ lực, mang lại giá trị kinh tế cao. Bởi dứa là một trong những cây trồng có hiệu quả kinh tế vượt trội so với các cây trồng truyền thống.
“Dứa là cây có thể trồng được quanh năm, không phụ thuộc thời vụ như xoài, cam, nhãn. Đó là lợi thế rất lớn trong tổ chức sản xuất và xuất khẩu. Không phải loại cây ăn quả nào cũng có thể vươn ra thế giới, nhưng dứa thì hoàn toàn có thể”, ông Khuê nói.
Gỡ khó khâu giống, đẩy mạnh liên kết và chế biến sâu
Mặc dù có nhiều lợi thế về khí hậu và thổ nhưỡng, ngành dứa Việt Nam vẫn đối mặt với những điểm yếu và thách thức. Theo bà Bùi Thị Hồng Hà, Trung tâm Nông nghiệp Hữu cơ (Học viện Nông nghiệp Việt Nam), cây dứa có nhiều lợi thế để phát triển tại các tỉnh Bắc Trung bộ, đặc biệt là trên những chân đất chuyển đổi từ lúa kém hiệu quả hoặc vùng gò đồi thiếu nước tưới. Đây là cây trồng phù hợp với điều kiện khô hạn, có thể cho thu nhập cao hơn so với lúa hay cây công nghiệp ngắn ngày.
Dù là cây trồng tiềm năng, nhưng nếu không gắn cây dứa với thị trường thì nông dân sẽ rơi vào cảnh được mùa mất giá. Nhiều hộ dân trồng dứa chỉ dựa vào kinh nghiệm, chưa nắm chắc kỹ thuật nên chất lượng không đồng đều, khó vào được chuỗi xuất khẩu chính ngạch.
Mặt khác, diện tích trồng các giống dứa chất lượng cao như Cayenne và MD2 còn thấp, chuỗi liên kết sản xuất yếu, và thương hiệu dứa Việt chưa có vị thế nổi bật trên thị trường quốc tế. Ông Phạm Duy Thái, Chủ tịch HĐQT Công ty CP sản xuất thương mại và dịch vụ GLFOODS (Nghệ An) đặt vấn đề, trong khi giống MD2 đã chiếm hơn 50% diện tích trồng dứa trên toàn thế giới, ở Việt Nam con số này lại chưa đến 5%. Cần làm rõ nguyên nhân khiến diện tích trồng MD2 còn khiêm tốn và đâu là giải pháp để phát triển trong thời gian tới.
Về việc này, ông Đinh Cao Khuê cho hay, nhu cầu thị trường với giống dứa MD2 là có thật, không chỉ ở EU mà còn ở các quốc gia khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc hay Trung Đông. Tuy nhiên, điểm nghẽn hiện nay là tốc độ nhân giống ở Việt Nam đối với giống này còn chậm.
Việc sản xuất cây giống bằng phương pháp nuôi cấy mô (in vitro) mới chỉ được triển khai ở một số viện nghiên cứu và chưa có nhiều doanh nghiệp tham gia, dẫn đến khả năng cung ứng hạn chế.
Giá giống nhập khẩu cũng là một rào cản lớn, ví dụ, mỗi chồi dứa MD2 nhập từ Costa Rica có giá lên tới 11.000 đồng nhưng chiều cao chỉ khoảng một gang tay, khiến chi phí đầu vào cao. Trong nước, ngoài in vitro, kỹ thuật nhân vô tính truyền thống bằng cách cắt khoanh cũng bị giới hạn khi mỗi khoanh chỉ tạo được 5-7 chồi, không đáp ứng được nhu cầu mở rộng diện tích nhanh chóng.
Để tận dụng cơ hội thị trường cũng như gỡ khó cho ngành dứa, ông Đinh Cao Khuê cho rằng, cần quy hoạch các vùng trồng dứa tập trung, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào khâu chọn giống năng suất cao và cơ giới hóa sản xuất. Đồng thời, cần đầu tư mạnh mẽ vào công nghệ chế biến sau thu hoạch để sản xuất các sản phẩm như nước ép, dứa đóng hộp, và dứa đông lạnh.
Việc đẩy mạnh áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng như VietGAP và GlobalGAP, cùng với mở rộng thị trường xuất khẩu, sẽ giúp ngành dứa Việt Nam phát triển bền vững và khẳng định vị thế trên trường quốc tế.
“Để phát triển cây dứa MD2 bài bản, các địa phương cần chủ động tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp trong việc nhập giống và tiếp cận nguồn giống chất lượng. Đồng thời, cần có một chiến lược tổng thể từ nghiên cứu, thử nghiệm, đến đào tạo kỹ thuật và tổ chức liên kết sản xuất”, ông Đinh Cao Khuê nói.
Lãnh đạo DOVECO đề nghị chính quyền địa phương có chính sách hỗ trợ nông dân, đặc biệt trong giai đoạn đầu trồng thử nghiệm cây trồng hoặc giống mới. “Chúng tôi sẵn sàng đồng hành, bao tiêu sản phẩm cho bà con, nhưng rất cần vai trò hỗ trợ từ Nhà nước để giảm thiểu rủi ro cho nông dân trong giai đoạn đầu chuyển đổi”, ông Khuê nói thêm.
Ông Nguyễn Quý Dương, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường):Theo quy hoạch đến năm 2030, tổng diện tích trồng dứa dự kiến khoảng 60.000 ha. Tuy nhiên, trước nhu cầu phát triển mạnh loại cây này, chắc chắn cần có sự điều chỉnh, cùng với những chương trình định hướng bài bản để biến dứa thành nông sản chủ lực, đóng góp vào tăng trưởng GDP và thúc đẩy xuất khẩu. Trong chiến lược này, thị trường Trung Quốc, với tiềm năng tiêu thụ khổng lồ, cần được đặc biệt chú trọng.
Nguyễn Hạnh