Ba tôi quê ở Bến Tre, 25 tuổi theo ông nội tản cư xuống Cà Mau rồi gặp má tôi. Năm 1972, tôi vào Ðảng, khai lý lịch, thành phần gia đình là trung nông chớ thật ra là bần nông mới đúng. Nhớ năm 1968, tôi từ Xã đoàn đi lên tới Huyện đoàn Trần Văn Thời, làm lễ kết nạp Ðoàn tại đó. Tôi không nhớ kỳ đó kết nạp được bao nhiêu người nhưng cũng không nhiều lắm. Kết nạp xong rồi thì có mấy anh ở Tỉnh đoàn Cà Mau đến nhận quân.
Anh Tư Bay lúc đó là Liên đội I, ảnh xuống để nhận quân cho Ðại đội Nguyễn Việt Khái 3. Còn tôi thì về Ðại đội Nguyễn Việt Khái 4 mới được thành lập. Trung đội của tôi do anh Lê Trung làm Trung đội trưởng. Chế Năm Liên với anh Thành Trung làm Trung đội phó. Khi tập hợp lên Tỉnh đoàn mới thành lập Liên đội, sau đó đưa qua phục vụ chiến trường lộ Vòng Cung. Tôi nhớ lúc đơn vị lên đến chỗ Thới Lai - Cờ Ðỏ thì gặp mấy anh bộ đội chủ lực miền Tây là Tiểu đoàn 307-367. Nhiệm vụ của chúng tôi lúc đó là chuyển vũ khí, đạn dược vào thành phố, chuyển thương binh, tử sĩ về tuyến sau. Có trạm quân y dã chiến được thành lập để phục vụ chiến dịch.
Hoạt động ở lộ Vòng Cung được mấy tháng thì kết thúc chiến dịch. Ðơn vị của tôi được lệnh rút về “tuyến trên” bổ sung cho Tuyến đường 1C. Chuyến đi này đã để lại cho tôi những ấn tượng sâu sắc không thua lúc ở lộ Vòng Cung. Tôi nhớ lúc qua lộ Cái Sắn, tụi tôi lội ngang sông, mà giặc đóng ở hai bên kinh lộ. Ðại đội của tụi tôi là đại đội đủ nên khá đông, vậy mà tụi tôi cũng qua được an toàn. Ðến rừng tràm Hà Tiên thì địch đánh bứt đường, không qua được, đành phải đóng quân lại đó, chia lực lượng ra thành hai tốp. Một tốp do anh Tư Bay dắt đi trước, một tốp do anh Hai Tân dắt đi sau. Lần lượt tìm cách len lỏi mà đi. Tôi nằm ở cánh của anh Hai Tân.
Minh họa: Minh Tấn.
Tháng 8, 9 là mùa nước nổi mênh mông. Ban ngày tụi tôi ém vô mấy bờ đìa, cảnh giác máy bay địch phát hiện. Ðêm xuống len lau lách mà đi. Trên trời mưa đổ như trút nước, dưới đất nước ngập tới lưng quần, tụi tôi lội loi ngoi trong nước như bầy chuột lột, cái lạnh càng lúc càng thấm sâu vào da thịt, tê buốt đến tận tim gan, vậy mà phải chịu đựng, đi cho đến khi trời hừng sáng. Lần đó quần áo lớp lội nước, lớp bị mưa ướt hết trơn không còn đồ mặc, tụi tôi tranh thủ giặt phơi. Trực thăng đi lùng phát hiện, nó đánh tụi tôi suốt một ngày trời. Lớp thì nó bỏ bom, lớp thì bắn pháo, lớp đổ quân. Cánh quân của tụi tôi lúc đó tơi tả: đứa chết, đứa bị thương, đứa thất lạc, còn sống sót thì tìm cách bò về. Trận đó về được tới nơi quần của tụi tôi chỉ còn có khúc trên, hai ống đứt mất tiêu lúc nào hổng biết, cỏ bắc ở Hà Tiên bén như dao cạo, nó cắt tụi tôi đứt thịt đứt da (sau này chúng tôi được phát quần bằng vải ni lông dầu, vừa mau khô, vừa chắc).
Trận đó, đơn vị tôi chết 36 đứa. Nhắc đến mà bùi ngùi nhưng khi đó đang trên đường hành quân, giặc nó đánh mình chạy không kịp thở làm sao kịp chôn cất đồng đội. Mấy anh mới đem gài thi thể dưới nước, chặt cây tràm gài chặt xuống để đừng nổi lên rồi tiếp tục lên đường, chớ đâu còn cách nào khác hơn… Anh Hai Tân có vẽ sơ đồ, nhưng tụi tôi cũng đâu có biết chỗ đó là chỗ nào, sau này nghe nói là kinh Tám Ngàn. Biết bao mùa nước nổi, xương thịt rã hết, bị nước cuốn trôi, nên khi về tìm đâu có gặp. Tụi tôi lần đó đâu có đứa nào còn nước mắt để mà khóc. Sống chung với nhau, thương như ruột thịt trong nhà, nhưng thấy đó rồi chết đó, tụi tôi như kẻ mất hồn vậy!
Về tới nơi, mấy anh nam còn quần áo cho tụi tôi mượn mặc. Chừng lên tới Campuchia rồi gặp chế Hồng Thắm tụi tôi ôm nhau khóc quá chừng. Chế Hồng Thắm có bà con với tôi, còn chế Hồng Láng là bà con cô cậu ruột. Út Hậu là em chồng của chị Hai tôi. Gặp nhau rồi không còn lời lẽ, cứ khóc. Lên tới đơn vị rồi, biên chế lại, tôi ở chung với chế Hồng Hạnh. Năm 1970, chế Hồng Hạnh với Mười Nhỏ cũng hy sinh ở đồi Tức Dụp.
Liên đội I Thanh niên xung phong hầu hết là dân Cà Mau cho nên lúc mới lên anh Tư Bay ảnh mới chọc: “Bộ mấy em ở dưới hổng có gạo ăn sao lên đây đông dữ vậy nè! Lên đây rồi ai nuôi?”. Lúc mới lên tôi sợ súng lắm, riết rồi quen. Mùa nước mình chở bằng xuồng, nhưng mùa khô mình phải vác. Vác đạn tụi tôi hay hát bài “Cô gái Sài Gòn đi tải đạn”, trong đó có câu: “Quả pháo ơi sao mà vui như đứa trẻ...”. Mình bế nó lên vai vừa đi vừa hát. Bây giờ nhớ lại sợ hết hồn. B40, B41 lỡ nó nổ một cái thì chết, vậy mà việc đó không bao giờ xảy ra đối với Thanh niên xung phong.
Năm 1970, tôi được rút đi học y tá ở Ðoàn 200, đến năm 1972 tôi qua A44, Cơ yếu của Ðoàn 192, sau đó tôi về Miền luôn. Giải phóng rồi tôi lo làm ăn, không liên hệ được với ai, đến khi họp mặt Thanh niên xung phong lần đầu tiên ở Sóc Trăng gặp mấy anh, mấy chị, tụi tôi khóc với nhau quá trời. Nhắc đến người này, người kia, kẻ còn, người mất, có một số hài cốt của mấy anh, chị chưa tìm được, tụi tôi tủi, tụi tôi lại khóc với nhau. Nói chung, đối với tụi tôi, những Thanh niên xung phong còn sống sót được trên tuyến lửa 1C hầu hết đều có tâm trạng như nhau. Ðối với tôi, khoảng đời sống ở Thanh niên xung phong luôn in đậm vào ký ức và mãi mang theo đến tận cuối đời./.
(Tổng hợp tự thuật của Thu Bé, cán bộ Thanh niên xung phong)
Nguyễn Thái Thuận