Tết Hà Nội có nhiều thay đổi so với trước đây, nhưng có một số thứ không thể thiếu, hoặc là không có thì người Hà Nội có tuổi thường chép miệng: “Thế là năm nay mất Tết”. Đó là những thứ gì mà ghê gớm vậy?
Thứ nhất là thời tiết. Trong truyền thống, tiết xuân vốn rơi vào chu kỳ rét đậm, có độ ẩm cao, giúp cây cối biến đổi, nảy lộc, đâm chồi, ra hoa, đặc biệt là những loại cây đặc trưng như hoa đào, mơ, mận hay lê. Giờ đây, biến đổi khí hậu có lẽ đã làm cho cái Tết Hà Nội thêm phần hồi hộp. Vốn dĩ câu cửa miệng ngày xưa khi đi chúc Tết thường là “năm nay rét ngọt nhỉ” hay “mong rét cho ra rét để còn mặc áo bông mới”, nên độ rét luôn là chủ đề được quan tâm. Cái rét dẫn đến nhiều thứ, từ việc rau, củ ra đúng vụ đến hoa nở đúng thì, hoặc một số món ăn cần có sự ủng hộ của tiết trời để làm nên mâm cỗ cúng tổ tiên được toàn vẹn, kế đó là ngon miệng người đương thời.
Tái hiện nghi thức rước lễ trong Chương trình "Tết Việt - Tết phố" tại Hà Nội. Ảnh: THANH TÙNG
“Tháng Giêng rét đài, tháng Hai rét lộc, tháng Ba rét nàng Bân” - cái rét đã thành một lẽ tất nhiên làm nên khí sắc mùa xuân miền Bắc nói chung và Hà Nội nói riêng, nơi hoa đào nghiễm nhiên phải nở trong giá rét mới hợp thời. Những năm nào mà trời trở ấm, nắng tươi, hoa đào nở quá sớm là năm đó cảm giác Tết thiếu hẳn sự se sắt đón chờ.
Thời tiết cũng là thứ khiến cảnh sắc Hà Nội vốn dĩ đã cổ kính lại khoác thêm màu huyền hoặc. Những mái chùa hay cửa đền, phủ nép dưới tán cây cổ thụ soi bóng những hồ nước được giăng một màn sương giá hay mưa phùn trở thành một thế giới u huyền giao hòa giữa quá khứ và hiện tại. Trời lạnh se sắt khiến hương khói cũng bảng lảng hơn, như một đường dẫn nối kết người đi lễ với cõi siêu nhiên mà trí óc họ gửi gắm.
Thứ hai là hoa Tết. Nguyên chuyện mua hoa Tết cũng đã có thể kể thành một cuốn sách. Việc mua hoa, ngoài sự ảnh hưởng của thời tiết như đã nói còn liên quan đến sự “bảo thủ” của người Hà Nội. Học giả Nguyễn Tiến Lãng đã viết trên Tạp chí Nam Phong rằng: “Hoa đào và hoa thủy tiên là hai hình ảnh không thể tách rời về cái Tết ở Hà Nội. Hoa thủy tiên mà màu xanh của thân và cánh hoa, dường như cô đọng trong mình tất cả màu xanh và rực rỡ của các loài hoa rải rác khắp vùng nông thôn chung quanh”. Sự ca tụng hoa thủy tiên đã đi vào vốn văn chương của nhiều nhà văn hàng tiên chỉ về thú ăn chơi Hà thành.
Nếu Nguyễn Tuân gọi hoa thủy tiên là một loại đồng hồ hoa thì Vũ Bằng cũng nói đến sự nở đúng lúc mới là thành công của kỹ thuật gọt củ hoa để trổ bông như ý: “Muốn trúng cách, phải toàn bích mới được, dù rằng mình muốn gọt kiểu long, kiểu phượng, kiểu lân, kiểu ly, nhưng đúng giờ định đoạt, mỗi dò phải có vài cái nụ, mà nụ thì phải là hàm tiếu” ("Ăn Tết thủy tiên"). Trải nghiệm thời thơ ấu của Vũ Bằng chính là ở “nòi” cầu kỳ dân phố: “Thầy tôi chít khăn, mặc áo chỉnh tề đi trước, một người bõ già mang thủy tiên theo sau, hai tay nâng lên phía trước mặt y như một người đương lễ. Ờ mà cũng lạ thật, cầm cốc thủy tiên như thế mà thành ra thủy tiên cũng thấy trang trọng hơn lên nhiều. Người ta thấy rằng đó không còn là một thú chơi tầm thường nữa, nhưng là cả một sự thành kính, cả một sự tôn thờ”. Những nơi chốn thi hoa thủy tiên đẹp luôn là những nơi linh thiêng, từ đền Ngọc Sơn đến các đình, đền trong phố cổ và tại nhà thì cũng đặt trang trọng nơi bàn trà tiếp khách. Chơi hoa thủy tiên đã có phần nhuốm màu thần bí, như những gì Vũ Bằng đã kể.
Nhưng hoa đào mới là loại hoa của muôn nhà. Người Hà Nội trước đây thường kén chọn hoa đào giống ở Nhật Tân, Phú Thượng, nơi có kỹ thuật tạo ra những cây đào thế hoặc đào cành có hoa nở đều, bông dày, cánh kép, có thể thắm như đào bích hoặc trang nhã như đào phai. Người ta còn sùng bái hoa đào ở nơi này đến độ phong cho tên “dinh đào”. Từ những dinh đào, ruộng đào nơi đất bãi phù sa sông Hồng, những cành đào đẹp theo xe người đi bán vào phố, dễ nhận diện giữa rất nhiều dòng đào từ các vùng khác đổ về. Niềm vui của người Hà Nội suốt nhiều thế hệ là len lỏi giữa "dòng sông" hoa đào để mua được cành đào về nhà. Cảm giác của Ôi nhớ chiều Ba mươi Tết/ Chen giữa đào hoa tươi thắm/ Đường phố đông vui chờ đón tân niên như lời bài hát "Nhớ về Hà Nội" của nhạc sĩ Hoàng Hiệp là một sự nối dài truyền thống ấy.
Vài thứ hoa khác có thể cũng đổi thay theo thời cuộc, nhưng nhắc đến chúng, người ta dễ hoài niệm về những năm tháng gian khó của những thập niên trước, như: Lay ơn, thược dược, violet, những loại hoa mới có từ khi người Pháp sang từ cuối thế kỷ 19 nhưng đã gắn bó đến độ thành hoa Hà Nội. Xem lại những bức ảnh chợ hoa Tết Hà Nội trong thế kỷ 20, khó vắng mặt những loại hoa này. Thời tiết lạnh ẩm của Hà Nội tỏ ra hợp với những loài hoa có gốc gác ôn đới, cho dù chúng khá mỏng mảnh giữa cái gió mùa Đông Bắc. Chúng gợi một cảm giác sang trọng mà thanh bạch của đời sống thị dân, đã đi vào thi ca: Cành hoa tim tím bé xinh xinh báo xuân nồng/ Rừng đào phong kín cánh mong manh hé hoa lòng/ Hà Nội chờ đón Tết, hoa chen người đi... ("Gửi người em gái"-Đoàn Chuẩn và Từ Linh). Một bình hoa với những bông thược dược nhiều màu làm trọng tâm, xen kẽ những cành hoa bướm mỏng manh như đậu lên nhánh lá và những nhành violet tím rung rinh là đủ hương xuân ngát một góc nhà. Cứng cáp hơn thì có bình lay ơn với những nụ liên tiếp trên thân tạo thế vươn lên, đem lại chút khởi sắc như niềm hy vọng trong gian khó.
Bên cạnh đào còn là quất, một loại cây cảnh thời vụ có nguồn gốc văn hóa Trung Quốc, có lẽ cũng là một loại cây đắt giá vào thời trước. Những ghi chép về thú chơi cây quất không có nhiều, phần nào cho thấy sự khác biệt so với ngày nay. Một phóng sự theo chân Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa vào đêm Ba mươi Tết độc lập đầu tiên-Bính Tuất 1946, đã thuật lại: “Liền đó cụ tới một nhà buôn bán ở phố Phúc Kiến. A đây mới thấy Tết, chậu cúc, cành đào, cây quất nặng trĩu quả. Gia đình đang ngồi nói chuyện. Thấy cụ, họ tưởng khách vào mua hàng. Khi biết ra, họ ngẩn người, chẳng kịp chúc lại cụ được lời nào, cụ đã ra. Xe đi, họ còn trông hút mãi” (“Hồ Chủ tịch với 3 ngày Tết”, Báo Cứu quốc ngày 6-2-1946).
Phúc Kiến là tên cũ của phố Lãn Ông hiện nay, vốn là phố buôn bán thuốc Bắc của những người Hoa gốc Phúc Kiến, miền Nam Trung Quốc. Tết xưa dường như cũng khiêm nhường hơn ta hình dung và việc người đứng đầu đất nước đi vi hành cũng giản dị đến ngỡ ngàng: “Năm nay, người chiến sĩ già thân mến của chúng ta muốn hưởng đầy đủ những phong vị của những ngày Tết. Nên hồi gần 12 giờ, cụ cũng áo quần chỉnh tề, đầu chít khăn, quần là hộp ra đền Ngọc Sơn lễ lúc Giao thừa. Cụ vui sướng lắm. Chen vai thích cánh với đồng bào. Cùng đứng với mọi người trông lên bàn thờ nghi ngút khói hương. Đông quá và vui quá! Người ta có ngờ đâu, cụ cũng đứng chen chúc nơi đây”. Bài viết hẳn nhiên muốn đem lại một cảm giác về sự gắn bó giữa vị lãnh tụ với quần chúng, không thuật lại một lời đối thoại nào nhưng để lại nhiều ý nghĩa.
Có chứng kiến những ngày Tết ở Hà Nội, soi lại đôi thứ vẫn chưa phôi phai, người ta nhận ra điều khiến cho người thời nay gắn bó với thứ gọi là Tết xưa là bởi sự lãng mạn vẫn được chắt lọc từ khí trời, hoa lá hay tập tục cộng đồng. Như những van xả áp lực đô thị vô hình, khí sắc ấy nhẹ nhàng truyền lại mà làm nên chân dung văn hóa xứ sở.
Nhà văn NGUYỄN TRƯƠNG QUÝ