Mặc dù tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường với nhiều yếu tố rủi ro, bất định nhưng kinh tế xã hội Việt Nam đạt được nhiều kết quả tích cực, theo đó đời sống Nhân dân được cải thiện hơn so với năm trước.
Thu nhập bình quân người/tháng năm 2024 theo giá hiện hành đạt 5,4 triệu đồng, tăng 9,1% so với năm 2023, cao hơn tốc độ tăng thu nhập của năm 2023 so với năm 2022 (6,2%).
Thu nhập bình quân người/tháng năm 2024 ở khu vực thành thị đạt 6,9 triệu đồng (tăng 10,1% so với năm 2023), gấp hơn 1,5 lần khu vực nông thôn đạt 4,5 triệu đồng, tăng 8,0% so với năm 2023.
Trong năm 2024, Đông Nam Bộ là vùng có thu nhập bình quân người/tháng cao nhất ở mức gần 7,1 triệu đồng. Vùng có thu nhập bình quân người/tháng thấp nhất là Trung du và miền núi phía Bắc chỉ gần 3,8 triệu đồng.
Thu nhập bình quân người/tháng chia theo thành thị, nông thôn giai đoạn 2014-2024 (Đơn vị tính: Nghìn đồng)
Nhóm hộ có thu nhập cao nhất (nhóm gồm 20% dân số có thu nhập cao nhất – nhóm 5) bình quân người/tháng đạt 11,8 triệu đồng cao gấp 7,4 lần so với nhóm hộ có thu nhập thấp nhất (nhóm gồm 20% dân số có thu nhập thấp nhất – nhóm 1) với thu nhập bình quân chỉ đạt 1,6 triệu đồng/người/tháng.
Năm 2024, tỷ trọng thu từ tiền công, tiền lương trong thu nhập chiếm 55,7%, tăng 0,5 điểm phần trăm so với năm 2023 (55,2%). Tỷ trọng thu từ hoạt động nông, lâm nghiệp, thủy sản duy trì ở mức 10,5%. Tuy nhiên, tỷ trọng thu từ hoạt động phi nông, lâm nghiệp, thủy sản đạt 22,8%, giảm 1,6 điểm phần trăm so với năm 2023 (24,4%).
Lượng tiêu thụ rượu bia trong năm 2024 giảm
Năm 2024, chi tiêu của người dân tăng trở lại và tăng chủ yếu ở khu vực thành thị. Chi tiêu bình quân người/tháng đạt gần 3 triệu đồng, tăng 6,5% so với 2022, trung bình 1 năm trong giai đoạn 2022-2024 tăng 3,2%. Chi tiêu bình quân 1 người 1 tháng ở khu vực thành thị đạt gần 3,8 triệu đồng (tăng 15,4% so với năm 2022), trong khi đó chi tiêu bình quân 1 người 1 tháng ở khu vực nông thôn không tăng, ở mức xấp xỉ 2,5 triệu đồng, giảm nhẹ 0,3% so với năm 2022.
Năm 2024, chi đời sống bình quân người/tháng là 2,8 triệu đồng, chiếm 94,5% trong tổng chi tiêu hộ gia đình, tăng 5,5% so với năm 2022. Trong đó, chi cho ăn uống gần 1,4 triệu đồng (tăng 7,3% so với 2022) và chi không phải cho ăn uống hơn 1,4 triệu đồng (tăng 3,8% so với năm 2022).
Sự chênh lệch trong chi tiêu đời sống bình quân người/tháng giữa nhóm hộ có thu nhập cao nhất (nhóm 5) và nhóm hộ có thu nhập thấp nhất (nhóm 1) trong năm 2024 là 3,1 lần (hơn 4,5 triệu đồng so với gần 1,5 triệu đồng).
Năm 2024, tiêu dùng gạo và lương thực quy gạo (viết gọn là tiêu dùng gạo) tiếp tục giảm với lượng gạo tiêu thụ bình quân 1 người 1 tháng là 6,5 kg, giảm 0,4 kg so với năm 2022. Các hộ gia đình sống ở khu vực nông thôn tiêu thụ nhiều gạo hơn so với các hộ gia đình ở khu vực thành thị (7,1 kg so với 5,5 kg/người/tháng).
Những hộ gia đình thuộc nhóm có thu nhập thấp nhất có lượng gạo tiêu thụ cao hơn so với những hộ gia đình thuộc nhóm có thu nhập cao nhất (7,3 kg so với 5,9 kg/người/tháng). Xu hướng này ngược lại đối với lượng tiêu thụ thịt các loại, những hộ gia đình thuộc nhóm có thu nhập cao nhất tiêu thụ nhiều thịt hơn so với nhóm có thu nhập thấp nhất (3,2 kg so với 2,0 kg/người/tháng).
Lượng tiêu thụ rượu bia, đồ uống khác (nước có ga, nước ngọt…) trong năm 2024 giảm so với năm 2022, rượu bia giảm từ 1,2 lít/người/tháng năm 2022 xuống còn 0,9 lít/người/tháng năm 2024 và đồ uống khác giảm từ 2,1 lít/người/tháng năm 2022 xuống 1,9 lít/người/tháng năm 2024.
Khối lượng tiêu dùng gạo, thịt các loại và rau bình quân 01 nhân khẩu 1 tháng giai đoạn 2014 – 2024 (Đơn vị tính: Kg).
Đầu tư cho giáo dục của hộ gia đình ngày càng cải thiện
Năm 2024, tỷ lệ đi học đúng tuổi các cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông lần lượt là 95,7%, 91,6% và 80,0%.
Trong vòng 10 năm từ 2014 đến 2024, tỷ lệ đi học đúng tuổi ở các cấp đều có xu hướng tăng, đặc biệt là tỷ lệ đi học đúng tuổi ở cấp trung học phổ thông (tăng từ 63,1% năm 2014 lên 80,0% năm 2024).
Đầu tư cho giáo dục của hộ gia đình ngày càng cải thiện, thể hiện ở chi giáo dục, đào tạo bình quân 1 năm cho 1 người đi học năm 2024 là hơn 9,5 triệu đồng tăng 36,3% so với năm 2022 (7 triệu đồng). Chi giáo dục, đào tạo tăng trở lại sau khi bị giảm do dịch bệnh Covid-19.
Trong cơ cấu chi giáo dục, đào tạo, các khoản chi cho học phí, trái tuyến (chiếm 41,1%), học thêm (chiếm 21,4%) và chi giáo dục khác (chiếm 19,3%) là các khoản chi chiếm tỷ trọng lớn.
Theo Cục Thống kê, tỷ lệ hộ nghèo năm 2024 là 2,3%, giảm 1,1 điểm phần trăm so với năm 2023. Trung du và miền núi phía Bắc là vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất cả nước (7,8%). Ngược lại, Đông Nam Bộ là vùng có tỷ lệ hộ nghèo thấp nhất cả nước (0,2%).
Xét riêng về 12 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản, các hộ gia đình Việt Nam năm 2024 thiếu hụt nhiều nhất là về việc làm (40,3%), tiếp đến là trình độ giáo dục người lớn (30,7%) và dinh dưỡng (21,4%).
Hoàng Mai