Nguyễn Bình T. tại cơ quan công an. Ảnh: Công an cung cấp
Theo báo Người Lao Động, ngày 27-9, Công an xã Hợp Minh, tỉnh Nghệ An, cho biết đơn vị đã bắt giữ được một đối tượng trong nhóm trộm cắp két sắt tại khu di tích đền Thượng. Cơ quan công an đề nghị các đối tượng còn lại đang lẩn trốn ra đầu thú để hưởng sự khoan hồng của pháp luật.
Trước đó, ngày 24-9, Công an xã Hợp Minh nhận được đơn trình báo của ông Thái Văn Tuế, Trưởng ban bảo vệ khu di tích đền Thượng (xóm Văn Trai, xã Hợp Minh, tỉnh Nghệ An) về việc khu di tích đền Thượng bị kẻ gian đột nhập phá két sắt trộm tiền công đức. Số tiền các đối tượng đã trộm được khoảng hơn 20 triệu đồng.
Sau khi nhận được đơn trình báo, Công an xã Hợp Minh tiến hành khám nghiệm hiện trường, triển khai các biện pháp nghiệp vụ để xác định cách thức gây án của các đối tượng, truy vết các dấu vết các đối tượng để lại tại hiện trường.
Bằng các biện pháp nghiệp vụ, Công an xã Hợp Minh đã xác định được các đối tượng gây án gồm Lê Viết Dũng (SN 2007); Nguyễn Trí Đức N. (SN 2009); Nguyễn Bình T. (SN 2009), Phạm Công Khánh D. (SN 2011), Đặng Quang T. (SN 2008), Đặng Quang H. (SN 2008), đều trú tại xã Hợp Minh, Nghệ An.
Ngay sau khi gây án các đối tượng đã bỏ trốn khỏi địa phương. Ngày 25-9, Nguyễn Bình T. trên đường bỏ trốn ra tỉnh Bắc Ninh thì bị lực lượng Công an xã Hợp Minh bắt giữ.
Tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017), cụ thể như sau:
* Khung 1:
Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
+ Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
+ Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017), chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
+ Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
+ Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
+ Tài sản là di vật, cổ vật.
* Khung 2:
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
+ Có tổ chức;
+ Có tính chất chuyên nghiệp;
+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
+ Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;
+ Hành hung để tẩu thoát;
+ Tài sản là bảo vật quốc gia;
+ Tái phạm nguy hiểm.
* Khung 3:
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
+ Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
* Khung 4:
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
+ Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
+ Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
* Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
Đối với cá nhân thực hiện hành vi trộm cắp tài sản lần đầu, không gây ra hậu quả nghiêm trọng về giá trị tài sản (cụ thể là dưới 2.000.000 đồng) và chưa bị kết án về các tội về chiếm đoạt tài sản thì người thực hiện hành vi vi phạm chỉ bị xử phạt hành chính
Cụ thể tại Điểm a Khoản 1 Điều 15 Nghị định 144/2021/NĐ-CP, phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi trộm cắp tài sản, xâm nhập vào khu vực nhà ở, kho bãi hoặc địa điểm khác thuộc quản lý của người khác nhằm mục đích trộm cắp, chiếm đoạt tài sản.
Như vậy, cá nhân có hành vi trộm cắp tài sản chỉ có thể bị truy cứu TNHS về tội trộm cắp tài sản khi hành vi đó đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017).
Hà Lê (tổng hợp)