Những cái Tết trên chiến trường

Những cái Tết trên chiến trường
một ngày trướcBài gốc
Chiến tranh không chỉ dừng lại trong ký ức
Vừa gặp chúng tôi, ông Lê Đức Chinh (SN 1952, xã Ia Nan, huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai) đã ngân nga những câu thơ hào sảng một thời: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/Mà lòng phơi phới dậy tương lai”...
Ông Lê Đức Chinh (xã Ia Nan, huyện Đức Cơ) bên các kỷ vật thời chiến. Ảnh: T.N
Năm 1972, Quảng Trị được mệnh danh là “cối xay thịt” với những trận đánh khốc liệt giữa Quân Giải phóng và Mỹ-ngụy. Trường Sơn hùng vĩ không chỉ là con đường tiếp vận mà còn là nơi ông Chinh chứng kiến cuộc chiến đấu anh dũng và sự hy sinh của biết bao đồng đội. Những câu thơ như nhắc nhở ông và thế hệ sau về một thời oanh liệt. Giữa bom đạn ác liệt, mỗi bước tiến của quân ta đều phải đánh đổi bằng máu xương.
Sau khi Quảng Trị được giải phóng, ông Chinh cùng đồng đội bắt đầu “lật cánh” sang Lào, tham gia Đoàn 559 mở đường Trường Sơn, tiếp vận lương thực, thực phẩm, vũ khí cho Quân khu 5 và chiến trường miền Nam. Nhắc về mùa xuân đầu tiên ở Lào, ông Chinh không thể quên những bữa lương khô cầm chừng, đồ ăn thức uống đều phải tằn tiện hết mức có thể. “Để có một cái Tết, anh em chúng tôi phải vượt cả ngày trời đổi muối lấy ít gạo nếp gói bánh chưng hay rượu Lào từ các làng bản. Mỗi người gánh vác trên vai hơn 40 kg lương thực, mệt lả nhưng vẫn quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ”-ông Chinh hồi nhớ.
Những ngày ở Trường Sơn, ông Chinh phải đối diện thường trực với cái chết. Bom đạn địch không ngừng dội xuống, trong khi nhiệm vụ vận chuyển hàng hóa tiếp tế cho chiến trường miền Nam lại vô cùng cấp bách. Đêm Giao thừa chỉ kịp vui vài giờ, ngay sáng mùng 1 Tết, ông Chinh cùng đồng đội đã phải trở lại công việc bốc dỡ, vận chuyển lương thực, vũ khí vào chiến trường. Ông kể, năm 1973, sau khi Hiệp định Paris được ký kết, nhờ có lệnh ngừng bắn, các chiến sĩ mới dám dùng xe tải để đẩy nhanh tiến độ vận chuyển hàng hóa; còn trước đó, hầu như đều đi bộ, đường rừng núi hiểm trở, thiếu thốn đủ bề...
Hòa bình trở lại, nhìn chặng đường đã qua, ông Chinh vẫn không nguôi nghĩ đến những đồng đội đã nằm lại giữa núi rừng Trường Sơn. “Mỗi dịp Tết, ngồi xem ti vi chiếu lại những thước phim tài liệu thời chiến, tôi lại nhớ đến hình ảnh đồng đội ra đi trên chiến trường mà vẫn cay cay khóe mắt”-ông Chinh bùi ngùi.
Còn đối với ông Nguyễn Chí Tạch (SN 1954, xã Ia Pnôn, huyện Đức Cơ)-nguyên Phó Tham mưu trưởng Trung đoàn 233 thì ký ức mùa xuân lại gắn liền với chiến trường Quảng Nam-Đà Nẵng. Tháng 9-1972, ông viết đơn bằng máu để xung phong nhập ngũ. Sau 3 tháng huấn luyện, đơn vị hành quân vào Nam, đóng quân tại huyện Hiên (tỉnh Quảng Nam). “Sau khi ký Hiệp định Paris, mặc dù ngừng bắn nhưng quân ngụy cứ đêm đến lại ra quấy rối dân. Chúng tôi thương thảo để hạn chế đụng độ. Vì chúng tôi biết rõ rằng một khi nổ súng, cả hai bên đều thiệt”-ông Tạch hồi nhớ.
Không chỉ lo đối đầu Mỹ-ngụy, bộ đội ta lúc đó còn phải “chiến đấu” với cái đói. Ông Tạch kể: “Cơm ngày ấy làm chi mà được như bây giờ. Nắm một nắm cơm với muối vừng bỏ vào ăng gô, mở ra cơm rời từng hạt vì gạo cũ đã lâu ngày. Khi ấy chỉ ước đi vớt được cá suối về nấu bữa canh chua lá bứa là đỡ mệt đi bao nhiêu”.
Giữa chiến trường bom rơi đạn nổ, không ít lần ông Tạch đối diện với tử thần. Một quả bom bi nổ tại ngã ba Hòa Cầm găm vào người ông 7 viên bi; đến hôm nay vẫn còn 1 viên nằm cách màng phổi 7 mm. Ông chậm rãi kể: “Bình thường không sao, mà mỗi khi trái gió trở trời, vết thương lại đày đọa. Những lúc ấy, tôi chỉ biết gục mặt vào ghế mà chịu đựng, đau không làm sao kể hết”.
Ông Nguyễn Ninh (xã Thăng Hưng, huyện Chư Prông) tâm sự về những kỷ niệm qua 2 cuộc kháng chiến. Ảnh: T.N
Với ông Nguyễn Ninh (SN 1933, thôn 2, xã Thăng Hưng, huyện Chư Prông), những mùa xuân thời chống Pháp và chống Mỹ là ký ức không thể nào quên. Năm 1954, ông tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ. Kháng chiến chống Mỹ, ông tham gia mở đường Trường Sơn. Trong những ngày làm nhiệm vụ, nhiều khi bom đạn mịt mù, lương thực cạn kiệt, các chiến sĩ phải ăn rau rừng cầm hơi.
Ông Ninh hồi nhớ: “Đời tôi đến nay, nói sướng thì có lẽ vẫn chưa biết thế nào là sướng. Tôi đã trải qua 7 lần tai nạn từ hồi chiến tranh đến giờ. Tết trong chiến tranh, địch không thả bom, nhưng vẫn bắn pháo để chặn đầu, chặn đuôi quân mình. May mà mình ở rừng núi, cũng được thiên nhiên che chở ít nhiều. Tôi cũng là số lớn mạng lớn, trải qua bom đạn không biết bao lần mà vẫn còn được sống để ngồi đây”. Dù vậy, nỗi đau chiến tranh không dừng lại ở ký ức, nó còn hiện hữu trong những di chứng bệnh tật mà ông mang theo đến tận bây giờ.
Những cái Tết trong kháng chiến
Đến giờ, ông Chinh vẫn nhớ như in những đêm Giao thừa trên chiến trường. Dù vật chất thiếu thốn trăm bề nhưng những người lính vẫn bừng lên niềm tin tất thắng. Đơn vị ông đã tổ chức hái hoa dân chủ ngay giữa núi rừng Trường Sơn.
Ông kể: “Chúng tôi dựng một cây đào đơn sơ từ những cành cây khô, tự tay trang trí và mỗi cành cây treo những mẩu giấy nhỏ ghi các bài hát, câu hò, bài thơ hay những thử thách dí dỏm. Mỗi người bốc một mẩu giấy và thực hiện thử thách mình nhận được. Tiếng cười xen lẫn với những bài hát vang lên giữa đêm Giao thừa khiến không gian núi rừng thêm ấm áp. Anh em cũng nhờ vậy mà vơi đi nỗi nhớ nhà, tạm thời gác lại nỗi lo đối mặt với tử thần khi ngày mai lại tiếp tục quay về với cuộc chiến”.
Bây giờ, khi những ký ức ấy quay lại, ông Chinh không giấu được cảm xúc tự hào: “Ngày ấy, dù khổ cực đến đâu, chúng tôi vẫn có thể cười, có thể hát. Đó là sức mạnh của tình đồng đội, là ý chí vượt lên hoàn cảnh để hướng về ngày đất nước hòa bình, thống nhất”.
Còn ông Nguyễn Chí Tạch hồi tưởng cái Tết đầu tiên của mình trên chiến trường năm 1972 là những ngày rét mướt, quân phục, lương thực đều thiếu thốn. Vừa rót cho chúng tôi ly trà nóng, ông Tạch vừa kể: “Khi ấy, tôi nhớ nhà lắm chứ. Tết năm ấy cũng không có bánh chưng, mãi đến mùng 6, bà con mới kịp mang bánh chưng đến cho bộ đội, cứ 2 người được 1 chiếc. Ăn miếng bánh lại có không khí Tết, mừng sao là mừng”.
Ông Nguyễn Chí Tạch (xã Ia Pnôn, huyện Đức Cơ) hồi tưởng về những ngày Tết khốc liệt trên chiến trường. Ảnh: T.N
Dù ngoài chiến trường vẫn là bom đạn nhưng trong khoảnh khắc ấy, ai cũng cảm nhận được hơi ấm của tình người, tình đồng đội. Đó là điều giúp các chiến sĩ vượt qua nỗi nhớ nhà để tiếp tục chiến đấu. Những ký ức ấy vẫn luôn vẹn nguyên trong ông Tạch, rưng rưng tự hào. “Ngày ấy, dù khổ cực là thế nhưng chúng tôi một lòng vững tin vào Đảng, vào sự nghiệp giải phóng dân tộc”-ông Tạch chia sẻ.
Còn ông Nguyễn Ninh, dù đôi tai không còn nghe rõ như trước nhưng ánh mắt vẫn sáng lên khi chúng tôi hỏi về những ngày tháng khốc liệt trên chiến trường. Hồi ấy, những người lính như ông không bao giờ nghĩ đến chuyện được về nhà ăn Tết, mà chỉ có một ý chí son sắt là tiếp tục chiến đấu để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Hồi tưởng về Tết ở miền Nam những năm đầu kháng chiến chống Mỹ, ông Ninh chậm rãi kể: “Toàn bộ lương thực khi ấy phải chuyển từ miền Bắc vào qua đường Trường Sơn nhưng cũng không đủ. Do đó, đơn vị phải xuống đồng bằng cõng muối đem về để đổi gạo, đổi bắp với dân. Rồi những ngày Tết năm 1963, mỗi người được 1 lon gạo, chỉ đủ ăn một bữa. Bắp mang về phải đem đi xông khói để ăn được lâu”.
Khi nhắc về những ngày ấy, ông Ninh cười khổ, đôi tay nắm chặt lại như để giữ lại những ký ức hào hùng thời trai trẻ. Những ký ức về chiến tranh, về những cuộc hành quân, về những ngày tháng hy sinh của tuổi trẻ dường như vẫn vang vọng trong lòng ông như bản nhạc không bao giờ tắt.
THẢO NHI
Nguồn Gia Lai : https://baogialai.com.vn/nhung-cai-tet-tren-chien-truong-post308296.html