Từ ngày 15/11, ngân hàng được giao và nhận vàng miếng
Ngày 15/11, Thông tư số 33/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung Thông tư số 17/2014/Thanh quy định về phân loại, đóng gói và giao nhận kim khí quý, đá quý, chính thức có hiệu lực.
Theo đó, Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng được phép giao, nhận vàng miếng theo hợp đồng mua, bán hoặc gia công. Việc giao nhận phải thực hiện theo đúng quy trình, có giấy tờ hợp pháp, niêm phong rõ ràng và chịu trách nhiệm về chất lượng, khối lượng vàng miếng.
Thông tư cũng quy định cụ thể tiêu chuẩn phân loại vàng làm ba nhóm: Vàng trang sức - mỹ nghệ (hàm lượng từ 8 Kara trở lên); vàng miếng (có ký mã hiệu, thông số, tiêu chuẩn rõ ràng) và vàng nguyên liệu (dưới dạng thỏi, hạt, miếng). Bao bì vàng miếng phải được chống giả theo quy chuẩn của ngân hàng thương mại hoặc doanh nghiệp được phép sản xuất vàng miếng.
Việc đóng gói và niêm phong được quy định: Vàng miếng cùng chất lượng được đóng thành lô 100 hoặc bội số của 100 miếng (tối đa 500 miếng), vàng nguyên liệu đóng thành lô 5 hoặc bội số của 5 thỏi (tối đa 25 thỏi), trong hộp kim loại không gỉ, có niêm phong và ghi rõ thông tin kiểm nhận.
Phải báo cáo khi chuyển tiền điện tử từ 500 triệu đồng
Từ ngày 1/11, Thông tư số 27/2025/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền quy định nội dung báo cáo giao dịch chuyển tiền điện tử trong nước và quốc tế, chính thức có hiệu lực.
Thông tư trên quy định, đối với giao dịch chuyển tiền điện tử trong nước từ 500 triệu đồng trở lên hoặc bằng ngoại tệ tương đương; giao dịch quốc tế từ 1.000 USD trở lên hoặc bằng ngoại tệ khác có giá trị tương đương phải báo cáo cơ quan chức năng có thẩm quyền dưới dạng điện tử.
Ngoài ra, thông tư cũng quy định mức giá trị của ngoại tệ tiền mặt, đồng Việt Nam tiền mặt, kim loại quý, đá quý, công cụ chuyển nhượng phải khai báo hải quan cửa khẩu khi cá nhân xuất cảnh, nhập cảnh và giấy tờ xuất trình. Cụ thể, mức giá trị của kim loại quý (trừ vàng), đá quý là 400 triệu đồng.
Tăng cường quản lý phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực ngân hàng
Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư số 27/2025/TT-NHNN ngày 15/9/2025hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022. Thông tư có hiệu lực từ ngày 1/11/2025.
Theo quy định mới, các tổ chức tín dụng, trung gian thanh toán, ví điện tử và sàn giao dịch tài chính phải thực hiện đánh giá rủi ro rửa tiền định kỳ, phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro, đồng thời báo cáo các giao dịch chuyển tiền điện tử về Cục Phòng chống rửa tiền thuộc Ngân hàng Nhà nước.
Ngoài ra, thông tư yêu cầu báo cáo bắt buộc các giao dịch có giá trị lớn, giao dịch đáng ngờ hoặc chuyển tiền xuyên biên giới, đảm bảo việc theo dõi, kiểm soát dòng tiền minh bạch hơn. Dữ liệu các giao dịch này phải được lưu trữ tối thiểu 5 năm và cung cấp khi có yêu cầu phục vụ công tác thanh tra, điều tra.
Sửa đổi quy định về dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt
Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư số 30/2025/TT-NHNN ngày 30/9/2025, sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 15/2024/TT-NHNN quy định về cung ứng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt. Thông tư có hiệu lực từ ngày 18/11/2025, trừ quy định tại khoản 2 Điều 7 sẽ có hiệu lực từ ngày 1/4/2026.
Theo đó, Thông tư 30/2025 bổ sung quy định về xác thực danh tính khách hàng, yêu cầu cá nhân là công dân Việt Nam phải xuất trình căn cước công dân hoặc định danh điện tử mức độ 2; đối với người nước ngoài cư trú tại Việt Nam, phải có hộ chiếu, giấy tờ tương đương hoặc định danh điện tử mức độ 2 khi sử dụng dịch vụ.
Ngoài ra, Thông tư siết chặt trách nhiệm của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán trong việc xử lý khiếu nại, tố giác hành vi vi phạm, đồng thời yêu cầu đảm bảo hệ thống thanh toán trực tuyến không bị gián đoạn quá 4 giờ/năm.
Nếu thời gian gián đoạn vượt 30 phút hoặc việc bảo trì không thông báo trước, đơn vị phải báo cáo Ngân hàng Nhà nước trong vòng 4 giờ và gửi báo cáo chi tiết trong 3 ngày làm việc.
Văn bản này được kỳ vọng sẽ nâng cao an toàn, bảo mật và tính minh bạch trong hoạt động thanh toán điện tử, phù hợp với xu thế chuyển đổi số quốc gia.
Quy định xử lý hành vi chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm xã hội
Nghị định số 274/2025/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội 2024 về chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp và giải quyết khiếu nại, tố cáo về bảo hiểm xã hội, có hiệu lực từ ngày 30/11.
Theo quy định, cơ quan BHXH quản lý trực tiếp đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp có trách nhiệm xác định hành vi chậm đóng, trốn đóng BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp; áp dụng hoặc trình cấp có thẩm quyền áp dụng các biện pháp xử lý hành vi chậm đóng, trốn đóng BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp.
Hằng tháng, cơ quan BHXH quản lý trực tiếp đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp xác định số tiền BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp chậm đóng, trốn đóng và số ngày đóng, trốn đóng BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp; tính số tiền người sử dụng lao động phải nộp bằng 0,03 %/ngày đối với số tiền chậm đóng, trốn đóng; thông báo với người sử dụng lao động để đối chiếu; tổ chức thu và quản lý theo quy định.
Không yêu cầu xuất trình bản chính, bản sao khi đã có trên VNeID
Nghị định 280/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 07/2025/NĐ-CP, chính thức có hiệu lực từ ngày 1/11.
Trong đó, bổ sung khoản 8 và khoản 9 vào Điều 9, "không yêu cầu người yêu cầu chứng thực nộp, xuất trình bản chính hoặc bản sao các giấy tờ, tài liệu đã được tích hợp trên VNeID khi người yêu cầu chứng thực đã xuất trình thông tin tương ứng từ VNeID".
Trong trường hợp người yêu cầu chứng thực đề nghị và người thực hiện chứng thực có thể khai thác thông tin, giấy tờ từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư hoặc các cơ sở dữ liệu khác theo quy định của pháp luật thì người thực hiện chứng thực có trách nhiệm thực hiện việc khai thác thông tin, giấy tờ từ các cơ sở dữ liệu này, không yêu cầu người yêu cầu chứng thực xuất trình bản chính, bản sao từ sổ gốc hoặc bản sao có chứng thực đối với các thông tin, giấy tờ đã được khai thác
Kiều Chinh