Những 'cú chốt' về đất đai, đầu tư, thuế, thương mại điện tử…người dân, doanh nghiệp không thể bỏ qua

Những 'cú chốt' về đất đai, đầu tư, thuế, thương mại điện tử…người dân, doanh nghiệp không thể bỏ qua
một giờ trướcBài gốc
Việc Quốc hội khóa XV thông qua 51 luật và 39 nghị quyết tại Kỳ họp thứ 10 không đơn thuần là một đợt hoàn thiện hệ thống pháp luật theo chu kỳ lập pháp, mà phản ánh rõ một giai đoạn chuyển hướng chính sách có tính cấu trúc đối với nền kinh tế. Kết quả đáng ghi nhận, một loạt đạo luật then chốt liên quan trực tiếp tới thuế, đầu tư, thương mại điện tử, quản trị dữ liệu và đất đai được sửa đổi, bổ sung đồng bộ, tạo nên một “mặt bằng pháp lý mới” cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong trung và dài hạn.
THUẾ VÀ QUẢN LÝ THUẾ TÁC ĐỘNG LỚN TỚI KIỂM SOÁT THUẾ CỦA DOANH NGHIỆP
Luật Thuế thu nhập cá nhân (sửa đổi) là một trong những văn bản có tác động lan tỏa mạnh nhất tới cấu trúc thị trường, dù đối tượng điều chỉnh trực tiếp không phải doanh nghiệp. Bởi lẽ, khu vực hộ và cá nhân kinh doanh hiện đang tham gia ngày càng sâu vào chuỗi cung ứng của doanh nghiệp, từ cho thuê tài sản, gia công, logistics, thương mại điện tử cho tới cung ứng dịch vụ chuyên môn.
Đây được xem là bước cải cách mạnh mẽ nhằm giảm gánh nặng về thủ tục và chi phí tuân thủ cho khu vực kinh tế cá thể, đồng thời phù hợp với bối cảnh phục hồi sản xuất kinh doanh và việc điều chỉnh mặt bằng giá chung. Theo quy định mới, hộ và cá nhân kinh doanh có tổng doanh thu không vượt 500 triệu đồng trong năm tài chính sẽ không phải nộp thuế thu nhập cá nhân, cũng như không phải nộp thuế giá trị gia tăng.
Đối với nhóm hộ, cá nhân kinh doanh có doanh thu từ trên 500 triệu đồng đến 3 tỷ đồng/năm, luật cho phép người nộp thuế được tự lựa chọn phương pháp tính thuế phù hợp. Có hai cách tính chính: Một là tính theo thu nhập thực tế, tức doanh thu trừ chi phí hợp lý, phần thu nhập chịu thuế được áp mức thuế suất 15%. Hai là tính theo tỷ lệ trên doanh thu, trong đó chỉ phần doanh thu vượt mức 500 triệu đồng mới được đưa vào căn cứ tính thuế.
Sự linh hoạt này nhằm đảm bảo công bằng hơn, phản ánh đúng năng lực và thực tế kinh doanh của từng hộ.
Luật cũng sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến nghĩa vụ kê khai, nộp thuế và trách nhiệm cung cấp thông tin, gắn chặt với Luật Quản lý thuế sửa đổi. Theo đó, hộ, cá nhân kinh doanh có phát sinh giao dịch trên nền tảng số, qua trung gian thanh toán hoặc sàn thương mại điện tử sẽ phải thực hiện kê khai sát với doanh thu thực tế, giảm đáng kể dư địa chênh lệch giữa doanh thu thực và doanh thu kê khai như trước đây.
Đối với cộng đồng doanh nghiệp, những thay đổi này tạo ra tác động gián tiếp nhưng rất thực chất. Doanh nghiệp sử dụng dịch vụ của cá nhân kinh doanh, cộng tác viên, người cho thuê tài sản hoặc nhà cung cấp độc lập sẽ phải rà soát lại toàn bộ hệ thống hợp đồng và phương thức thanh toán. Các khoản chi trả cho cá nhân kinh doanh sẽ ngày càng gắn với yêu cầu chứng từ, hóa đơn và xác định rõ nghĩa vụ thuế, thay vì cơ chế “thỏa thuận dân sự” linh hoạt như trước.
Đặc biệt, trong các lĩnh vực như thương mại điện tử, logistics, bất động sản cho thuê, truyền thông – sáng tạo nội dung, sự thay đổi cách tính thuế của hộ và cá nhân kinh doanh có thể làm tăng chi phí tuân thủ ngắn hạn, nhưng đồng thời giúp doanh nghiệp giảm rủi ro pháp lý về thuế trong dài hạn khi hệ sinh thái đối tác trở nên minh bạch và chính quy hơn.
Ngày 10.12.2025, Quốc hội đã thông qua Luật Thuế thu nhập cá nhân 2025 (thay thế Luật Thuế thu nhập cá nhân 2007). Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1.7.2026.
Nội dung quy định đáng chú ý tại Luật Thuế thu nhập cá nhân 2025 là việc điều chỉnh biểu thuế TNCN lũy tiến từ 07 bậc xuống còn 05 bậc.
Dưới đây là biểu thuế TNCN lũy tiến 5 bậc Luật Thuế thu nhập cá nhân 2025:
Biểu thuế TNCN lũy tiến 7 bậc theo quy định trước đây:
Như vậy, ngoài việc giảm bậc thuế, biểu thuế mới theo Luật Thuế thu nhập cá nhân 2025 đã giảm thuế suất ở một số bậc so với quy định hiện hành, mức thuế suất 15% ở bậc 2 xuống 10% và thuế suất 25% ở bậc 3 xuống 20%.
Đồng thời điều chỉnh mức thu nhập chịu thuế TNCN ở từng bậc ứng với các mức thuế suất phải đóng. Đơn cử mức khởi điểm bắt đầu tính thuế TNCN ở mức 5% hiện hành là đến 5 triệu đồng/tháng (tức đến 60 triệu đồng/năm), trong khi mức đóng thuế TNCN mới nhất áp dụng từ ngày 1.7.2026 là đến 10 triệu đồng/tháng (tức đến 120 triệu đồng/năm).
Về mức giảm trừ gia cảnh, Quốc hội giao Chính phủ căn cứ biến động của giá, thu nhập để điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh.
Theo nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua hôm 17.10, mức giảm trừ cho bản thân người nộp thuế lên 15,5 triệu một tháng cho người phụ thuộc lên 6,2 triệu, áp dụng từ kỳ tính thuế năm 2026.
Với mức giảm trừ này, cá nhân người nộp thuế (không có người phụ thuộc) thu nhập 17 triệu đồng một tháng, từ kỳ tính thuế năm 2026 họ chưa phải đóng thuế, sau khi trừ các khoản bảo hiểm, giảm trừ gia cảnh cho bản thân.
Cá nhân có thu nhập 17 triệu đồng một tháng, mức đóng bảo hiểm xã hội bằng thu nhập. Số tiền bảo hiểm 10,5% (bảo hiểm xã hội 8%, y tế 1,5% và thất nghiệp 1%) là 1,785 triệu đồng. Tổng các khoản được giảm trừ là 17,285 triệu đồng (sau khi cộng mức giảm trừ cho bản thân 15,5 triệu), lớn hơn thu nhập nên họ chưa phải nộp thuế.
Trường hợp có 1 người phụ thuộc, cá nhân thu nhập 24 triệu một tháng cũng không phải nộp thuế sau khi trừ các khoản bảo hiểm. Tương tự, cá nhân có thu nhập 31 triệu đồng một tháng và 2 người phụ thuộc, họ cũng chưa phải nộp thuế khi áp theo biểu thuế lũy tiến.
LUẬT THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ LÀM RÕ TRÁCH NHIỆM TRONG HOẠT ĐỘNG LIVESTREAM BÁN HÀNG
Một trong những điểm nhấn lập pháp mang tính bước ngoặt tại Kỳ họp thứ 10 là việc Quốc hội thông qua Luật Thương mại điện tử với phạm vi điều chỉnh rộng và mức độ can thiệp sâu hơn hẳn so với các quy định trước đây. Điều này phản ánh thực tế rằng thương mại điện tử đã không còn là lĩnh vực mới nổi, mà đã trở thành một trụ cột của nền kinh tế, đòi hỏi khung pháp lý tương xứng.
Theo Điều 4 và Điều 7, luật mở rộng đối tượng áp dụng tới mọi tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động thương mại điện tử tại Việt Nam, bao gồm cả nền tảng nước ngoài, bán hàng qua mạng xã hội, livestream và các mô hình trung gian số. Đây là lần đầu tiên các hoạt động kinh doanh vốn mang tính phi chính thức hoặc khó kiểm soát được đặt trong một khuôn khổ pháp lý thống nhất.
Trọng tâm quản lý được thể hiện rõ tại Điều 27 và Điều 29, khi luật quy định trách nhiệm cụ thể của sàn thương mại điện tử và nền tảng trung gian trong việc định danh người bán, kiểm soát hàng hóa, lưu trữ dữ liệu giao dịch và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Sàn không còn đơn thuần là bên “cung cấp hạ tầng”, mà trở thành một chủ thể có trách nhiệm pháp lý trực tiếp đối với hệ sinh thái kinh doanh mà mình vận hành.
Đối với doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp bán lẻ, logistics, thanh toán và marketing số, luật mới tạo ra một môi trường cạnh tranh minh bạch hơn nhưng cũng khắt khe hơn. Các mô hình tăng trưởng dựa trên quy mô nhanh, kiểm soát lỏng sẽ khó duy trì. Ngược lại, doanh nghiệp có hệ thống quản trị, kiểm soát rủi ro và tuân thủ tốt sẽ được hưởng lợi từ sự sàng lọc thị trường.
Luật quy định định danh người bán trên các sàn thương mại điện tử thông qua hệ thống định danh điện tử quốc gia VNeID. Quy định này hỗ trợ truy vết người bán, hạn chế hàng giả, hàng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ và giúp cơ quan thuế quản lý hiệu quả hơn, chống thất thu ngân sách nhà nước.
Chính phủ khẳng định nguyên tắc không phát sinh thêm thủ tục hành chính, tận dụng tối đa hạ tầng số hiện có để hỗ trợ quản lý mà không gây thêm gánh nặng cho doanh nghiệp và người dân.
Song hành với Luật Thương mại điện tử, các luật và điều khoản sửa đổi liên quan đến dữ liệu, an ninh mạng và chuyển đổi số tiếp tục củng cố một trụ cột mới của môi trường kinh doanh hiện đại: quản trị dữ liệu như một tài sản chiến lược.
Theo các quy định tại Điều 26 và Điều 27 của các luật liên quan đến an toàn thông tin mạng, doanh nghiệp có trách nhiệm bảo vệ dữ liệu cá nhân, dữ liệu khách hàng và dữ liệu quan trọng trong suốt vòng đời xử lý, từ thu thập, lưu trữ đến chia sẻ và khai thác. Trách nhiệm này không chỉ dừng ở yêu cầu kỹ thuật, mà còn gắn với nghĩa vụ pháp lý và trách nhiệm giải trình khi xảy ra sự cố.
Đối với nhiều doanh nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, thương mại điện tử, viễn thông và công nghệ, yêu cầu này tạo ra áp lực chi phí không nhỏ. Tuy nhiên, ở góc độ dài hạn, đây cũng là động lực để doanh nghiệp nâng cấp hệ thống quản trị, củng cố niềm tin của khách hàng và đối tác, qua đó chuyển tuân thủ pháp lý thành lợi thế cạnh tranh.
LUẬT ĐẦU TƯ ĐƠN GIẢN HÓA, THU HẸP DANH MỤC NGÀNH NGHỀ CÓ ĐIỀU KIỆN
Một điểm cải cách lớn của Luật Đầu tư (sửa đổi) là rà soát, cắt giảm mạnh danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Chính phủ đã cắt giảm 38 ngành nghề và điều chỉnh phạm vi 20 ngành nghề, phù hợp tinh thần Nghị quyết 68 và 198 về cải thiện môi trường kinh doanh.
Đồng thời, Chính phủ sẽ công bố hai danh mục mới: danh mục ngành nghề bắt buộc cấp phép trước khi kinh doanh và danh mục ngành nghề chuyển sang cơ chế quản lý hậu kiểm, giúp giảm áp lực thủ tục đầu vào và nâng cao trách nhiệm doanh nghiệp trong tuân thủ pháp luật.
Ngoài ra, Luật Đầu tư (sửa đổi) cũng quy định ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Theo đó, ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện là ngành, nghề kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam mà việc thực hiện hoạt động trong ngành, nghề đó phải đáp ứng điều kiện cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội và sức khỏe cộng đồng.
Đáng chú ý hơn, Điều 31 và Điều 32 (sửa đổi) về thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư đã được điều chỉnh theo hướng phân cấp mạnh cho địa phương, đặc biệt với các dự án không thuộc diện nhạy cảm về quốc phòng, an ninh hay môi trường. Cơ chế này giúp rút ngắn đáng kể vòng đời chuẩn bị dự án, giảm tình trạng “chờ ý kiến nhiều tầng nấc” vốn là điểm nghẽn kéo dài trong thực tiễn.
Về hoạt động đầu tư ra nước ngoài, luật đơn giản hóa mạnh thủ tục, bãi bỏ chấp thuận chủ trương đầu tư và thu hẹp diện dự án phải xin giấy chứng nhận đầu tư. Một danh mục dự án sẽ được quy định cụ thể để không phải thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp Việt Nam mở rộng thị trường. Cùng với đó, Chính phủ sẽ bổ sung quy định nhằm bảo đảm quản lý ngoại hối và an ninh kinh tế, tài chính theo yêu cầu thực tiễn.
THÁO GỠ VƯỚNG MẮC VỀ ĐẤT ĐAI, MỞ RỘNG TRƯỜNG HỢP THU HỒI ĐẤT
Trong lĩnh vực đất đai đã thông qua Nghị quyết của Quốc hội quy định một số cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Đất đai nhằm tháo gỡ vướng mắc trong thi hành Luật Đất đai được kỳ vọng tạo ra chuyển biến thực chất cho thị trường. Trọng tâm của các điều chỉnh là định giá đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng và lựa chọn nhà đầu tư, những khâu thường gây đình trệ dự án kéo dài nhiều năm.
Các quy định mới hướng tới việc tiệm cận giá đất theo nguyên tắc thị trường, tăng tính minh bạch trong quy trình định giá và giảm xung đột lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người sử dụng đất. Đồng thời, cơ chế xử lý các dự án vướng mắc lịch sử được làm rõ hơn, mở ra khả năng “giải phóng” một lượng lớn dự án đang bị ách tắc.
Ngoài ra, về thời điểm xác định giá đất đối với diện tích đất thanh toán cho hợp đồng BT, Chính phủ hoàn thiện quy định theo hướng: thời điểm xác định giá đất là thời điểm Nhà nước quyết định giao đất, cho thuê đất.
Trường hợp Nhà nước chậm giao đất hoặc cho thuê đất, nhà đầu tư được hưởng thêm một khoản tiền tương ứng với mức lãi suất trung bình của các ngân hàng thương mại cổ phần Nhà nước, tính trên phần giá trị hạng mục công trình hoặc công trình dự án BT.
Thời gian được hưởng tính từ thời điểm nghiệm thu hoàn thành đến khi có quyết định giao đất, cho thuê đất. Quy định này áp dụng cho các hợp đồng BT thực hiện từ ngày Nghị quyết có hiệu lực thi hành (1/1/2026).
Chính phủ cũng cho biết các khó khăn của hợp đồng BT ký trước thời điểm Nghị quyết có hiệu lực sẽ được xử lý trong Nghị quyết về tháo gỡ khó khăn của các dự án tồn đọng để bảo đảm đồng bộ.
Đối với doanh nghiệp bất động sản, hạ tầng và khu công nghiệp, đây không chỉ là câu chuyện pháp lý, mà là vấn đề sống còn về dòng tiền và chiến lược đầu tư. Môi trường đất đai mới đòi hỏi doanh nghiệp phải nâng cao năng lực pháp chế, quản trị rủi ro và làm việc chặt chẽ hơn với chính quyền địa phương, nhưng đổi lại là khả năng triển khai dự án minh bạch và bền vững hơn.
Từ 2026, Nhà nước sẽ thu hồi đất thêm 3 trường hợp để phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có đất cho dự án khu thương mại tự do, trung tâm tài chính quốc tế.
Với hơn 90% đại biểu tán thành, Quốc hội thông qua Nghị quyết về một số cơ chế tháo gỡ khó khăn thực hiện Luật Đất đai, sáng 11/12.
Nghị quyết bổ sung thêm 3 trường hợp Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội. Thứ nhất là thu hồi đất để thực hiện dự án khu thương mại tự do hay trong trung tâm tài chính quốc tế.
Thứ hai là trường hợp chủ đầu tư đã đàm phán được trên 75% diện tích và hơn 75% người có đất. HĐND cấp tỉnh sẽ xem xét, thông qua việc thu hồi phần đất còn lại để giao cho chủ đầu tư. Cuối cùng, trường hợp Nhà nước thu hồi để tạo quỹ đất thanh toán theo hợp đồng BT, cho thuê đất, tiếp tục sản xuất kinh doanh.
8 NHÓM CÔNG TRÌNH ĐƯỢC MIỄN GIẤY PHÉP XÂY DỰNG
Một trong những điểm mới quan trọng của Luật Xây dựng (sửa đổi) là mở rộng 8 nhóm công trình được miễn giấy phép xây dựng, trong đó có công trình thuộc dự án đầu tư công đặc biệt và nhà ở riêng lẻ dưới 7 tầng.
Nhóm công trình đầu tiên được miễn giấy phép xây dựng là công trình bí mật Nhà nước; công trình xây dựng khẩn cấp, cấp bách; công trình thuộc dự án đầu tư công đặc biệt, dự án đầu tư theo thủ tục đặc biệt; công trình tạm; công trình tại khu vực đất quốc phòng - an ninh.
Nhóm thứ hai bao gồm các công trình thuộc dự án đầu tư công, được quyết định đầu tư bởi các cấp có thẩm quyền như: Thủ tướng, người đứng đầu cơ quan Trung ương, thủ trưởng các cơ quan tư pháp tối cao, Kiểm toán Nhà nước, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, các bộ, ngành, tổ chức chính trị - xã hội và Chủ tịch UBND các cấp.
Nhóm thứ ba là công trình xây dựng theo tuyến trên địa bàn từ hai tỉnh trở lên; công trình theo tuyến ngoài khu vực định hướng phát triển đô thị theo quy hoạch được phê duyệt hoặc phương án tuyến được chấp thuận.
Nhóm thứ tư là công trình trên biển thuộc dự án đầu tư xây dựng ngoài khơi đã được cấp có thẩm quyền giao khu vực biển để thực hiện dự án; cảng hàng không, công trình tại cảng hàng không, công trình bảo đảm hoạt động bay ngoài cảng.
Thứ năm, công trình quảng cáo không phải xin phép theo Luật Quảng cáo; công trình hạ tầng kỹ thuật viễn thông thụ động.
Thứ sáu, công trình thuộc dự án đầu tư đã được cơ quan chuyên môn thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi hoặc điều chỉnh và được phê duyệt theo quy định.
Thứ bảy, công trình xây dựng cấp 4; nhà ở riêng lẻ dưới 7 tầng, tổng diện tích sàn dưới 500 m2 được miễn giấy phép nếu không thuộc các khu vực có quy định quản lý kiến trúc như khu chức năng, khu đô thị, khu dân cư nông thôn, khu vực phát triển đô thị theo quy hoạch tỉnh/thành phố, quy hoạch chung khu kinh tế, khu du lịch quốc gia, quy hoạch chung xã hoặc khu vực đã có quy chế quản lý kiến trúc.
Nhóm thứ tám được miễn giấy phép xây dựng là công trình sửa chữa, cải tạo bên trong hoặc cải tạo mặt ngoài không tiếp giáp đường đô thị có yêu cầu quản lý kiến trúc. Việc sửa chữa không làm thay đổi mục đích, công năng, không ảnh hưởng kết cấu chịu lực, bảo đảm an toàn phòng cháy chữa cháy, môi trường và hạ tầng kỹ thuật.
Bảo An
Nguồn Thương Gia : https://thuonggiaonline.vn/nhung-cu-chot-ve-dat-dai-dau-tu-thue-thuong-mai-dien-tunguoi-dan-doanh-nghiep-khong-the-bo-qua-post565607.html