Những cuộc cải cách lớn kiến tạo nền giáo dục phát triển toàn diện

Những cuộc cải cách lớn kiến tạo nền giáo dục phát triển toàn diện
10 giờ trướcBài gốc
Sáng 28/8/2025, hàng trăm nghìn học sinh của các cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh Nghệ An đã tựu trường năm học 2025 - 2026 trong không khí hân hoan, phấn khởi. Ảnh: Bích Huệ/TTXVN
Từ phong trào “diệt giặc dốt” đến 3 cuộc cải cách giáo dục
Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, đất nước đã phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, “thù trong giặc ngoài”, kinh tế kiệt quệ, hơn 90% dân số mù chữ. Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách hàng đầu được Chính phủ đề ra là "diệt giặc dốt", triển khai mạnh mẽ qua phong trào Bình dân học vụ, biến việc học chữ Quốc ngữ thành nghĩa vụ bắt buộc và miễn phí cho toàn dân.
Song song với đó, một nền giáo dục hoàn toàn mới được định hình, dựa trên ba nguyên tắc cốt lõi: dân tộc hóa (lấy tiếng Việt làm ngôn ngữ chính), khoa học hóa (chống lối học giáo điều) và đại chúng hóa (phục vụ đông đảo nhân dân).
Giai đoạn 1945 - 1954 là thời kỳ đặc biệt và đầy thử thách trong lịch sử dân tộc. Khi cuộc kháng chiến lan rộng, giáo dục đã có sự chuyển mình mạnh mẽ, trở thành một mặt trận thực sự với phương châm "Học để kháng chiến". Đỉnh cao của sự chuyển hướng này là cuộc Cải cách giáo dục toàn diện năm 1950 nhằm kiến thiết một hệ thống giáo dục mới, thống nhất và liên thông, phục vụ trực tiếp cho cuộc chiến và công cuộc kiến quốc tương lai. Cuộc cải cách đã thay thế hệ thống phổ thông 12 năm bằng hệ thống 9 năm gọn nhẹ hơn, đồng thời xây dựng lại toàn bộ chương trình và sách giáo khoa theo hướng thiết thực, khoa học và đậm tinh thần dân tộc.
Đến giai đoạn 1954 - 1975, Đảng và Nhà nước coi giáo dục là một mặt trận trọng yếu gắn liền với sự nghiệp cách mạng. Chủ trương nổi bật được thể hiện qua cuộc Cải cách giáo dục năm 1956, thiết lập hệ thống phổ thông 10 năm với chương trình giáo dục toàn diện, gắn lý luận với thực tiễn, xây dựng một hệ thống giáo dục quốc dân hoàn chỉnh, từ mầm non đến đại học, mở rộng mạng lưới đến tận các xã. Đội ngũ giáo viên được đào tạo bài bản hơn. Sách giáo khoa được biên soạn mới. Các trường đại học phát triển nhanh, từ 5 trường (1959 - 1960) lên 17 trường (1964 - 1965), nhiều cán bộ được đào tạo ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, chuẩn bị nguồn nhân lực cho công cuộc tái thiết đất nước sau chiến tranh.
Thành tựu nổi bật nhất của giáo dục trong giai đoạn này là miền Bắc đã cơ bản xóa nạn mù chữ. Đến năm 1958, có 93,4% nhân dân độ tuổi 12 - 50 ở đồng bằng và trung du biết đọc, biết viết. Đây là cơ sở cho việc nâng cao dân trí, phát triển văn hóa, kinh tế của đất nước. Hàng vạn cán bộ, trí thức, kỹ sư, bác sĩ, giáo viên được đào tạo, trở thành lực lượng chủ chốt xây dựng miền Bắc và chi viện cho miền Nam. Ở miền Nam, trong vùng giải phóng, nền giáo dục cách mạng đã chứng minh sự linh hoạt, bền bỉ, xây dựng mạng lưới trường lớp dân chủ, đào tạo cán bộ phục vụ kháng chiến, in ấn và phổ biến hàng triệu bản sách giáo khoa.
Nhiều trường học trang trí rực rỡ nhân dip kỷ niệm 80 năm Ngày Quốc khánh (2/9) và sẵn sàng cho lễ khai giảng năm học mới 2025 - 2026 vào 5/9 tới đây. Ảnh: Thanh Tùng/TTXVN
Sau khi đất nước thống nhất, giai đoạn 1975 - 1986 là một chặng đường lịch sử đặc biệt, ghi dấu những nỗ lực phi thường của ngành Giáo dục Việt Nam. Nghị quyết 14-NQ/TW (tháng 1/1979) về Cải cách giáo dục được xem là văn kiện pháp lý quan trọng nhất, chính thức khởi động cuộc Cải cách giáo dục lần thứ ba.
Nghị quyết này mang tính chất như một “cương lĩnh cải cách giáo dục lâu dài”, đề ra các mục tiêu và giải pháp cốt lõi: Xây dựng hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm trên toàn quốc, xóa bỏ sự khác biệt giữa hệ 10 năm ở miền Bắc và 12 năm ở miền Nam; Biên soạn một bộ chương trình và sách giáo khoa thống nhất trên cả nước theo tinh thần hiện đại, thiết thực, kết hợp chặt chẽ giữa Khoa học Tự nhiên và Khoa học Xã hội; Nhấn mạnh nguyên lý “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất”, tăng cường giáo dục kỹ thuật tổng hợp và hướng nghiệp cho học sinh; Mục tiêu đào tạo là xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa với đầy đủ các phẩm chất về trí tuệ, đạo đức, thể chất và thẩm mỹ.
Trong giai đoạn này, ngành đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử là thống nhất hệ thống giáo dục quốc dân, góp phần củng cố đoàn kết dân tộc. Tuy nhiên, những khó khăn về chất lượng và nguồn lực đòi hỏi một công cuộc đổi mới toàn diện hơn, không chỉ trong giáo dục mà cả về kinh tế - xã hội, mở đường cho giai đoạn phát triển tiếp theo của đất nước.
Giai đoạn 1986-2000, cùng với công cuộc đổi mới đất nước, ngành giáo dục đã nỗ lực vượt qua khủng hoảng, hồi phục và phát triển, đạt được những thành tựu lớn. Dù còn những hạn chế, khó khăn, nhưng những thành tựu đạt được trong việc mở rộng quy mô, hoàn thiện thể chế và đẩy mạnh xã hội hóa, đa dạng hóa loại hình, hội nhập quốc tế đã tạo ra tiền đề vững chắc để ngành giáo dục Việt Nam tiếp tục thực hiện những cuộc đổi mới toàn diện hơn.
Kiến tạo nền giáo dục toàn diện, đột phá, sẵn sàng thích ứng
Bước sang thế kỷ XXI, giáo dục Việt Nam đã không ngừng đổi mới, chủ động, linh hoạt thực hiện nhiều bước tiến đột phá, kiến tạo một nền giáo dục toàn diện, sẵn sàng thích ứng với sự phát triển của thời đại.
Nghị quyết 29-NQ/TW về Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo đã xác định chuyển đổi tư duy từ trang bị kiến thức sang phát triển năng lực người học, chú ý đào tạo cho thế hệ tương lai để đưa Việt Nam thành một quốc gia mạnh về tiếng anh và Công nghệ thông tin đã mở ra một con đường mới, hướng phát triển lâu dài cho đất nước.
Các văn bản chỉ đạo của Đảng và Nhà nước giai đoạn này đã hình thành một hệ thống tư tưởng nhất quán, có tính kế thừa và liên tục phát triển. Hệ thống này được định hình bởi những thay đổi triết lí sâu sắc: từ cơ chế quản lí tập trung và nguồn lực chủ yếu của ngân sách nhà nước sang một nền giáo dục được xã hội hóa; chuyển từ giáo dục trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; chuyển từ ứng dụng công nghệ thông tin đơn thuần sang chuyển đổi số toàn diện… Những chính sách này không chỉ khẳng định quan điểm “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” mà còn hướng tới xây dựng một nền giáo dục nhân văn, hiện đại, đảm bảo công bằng và chủ động hội nhập quốc tế.
Năm học 2025-2026, toàn ngành giáo dục Thủ đô Hà Nội sẽ có khoảng 70.500 lớp học với 2.327.000 học sinh (tăng khoảng 60.000 học sinh so với năm học 2024 - 2025) và 129.300 giáo viên. Ảnh: Thanh Tùng/TTXVN
Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong 25 năm qua, giáo dục Việt Nam đã mở rộng nhanh chóng ở tất cả các bậc học, hệ thống giáo dục hình thành mạng lưới đồng bộ từ mầm non đến sau đại học, đa dạng loại hình, tiệm cận chuẩn mực khu vực và quốc tế.
Giáo dục mầm non đạt phổ cập cho trẻ 5 tuổi vào năm 2017, với gần 99% trẻ đi học. Ở phổ thông, phổ cập Tiểu học được duy trì vững chắc, Trung học Cơ sở hoàn thành trên toàn quốc và nhiều địa phương đã phổ cập Trung học Phổ thông; tỷ lệ học sinh đi học đúng độ tuổi tăng, tình trạng bỏ học giảm rõ rệt. Việc triển khai Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đã hoàn thành chu kỳ đầu tiên.
Giáo dục nghề nghiệp phát triển mạnh, đến năm 2020, khoảng 70% lao động qua đào tạo nghề được cấp chứng chỉ. Trong giáo dục đại học, số sinh viên/1 vạn dân tăng từ 117 (2000) lên trên 200 (2010) và tiếp tục tăng trong giai đoạn 2020 - 2025. Nhiều trường thực hiện tự chủ, gắn kết với thị trường lao động, thực hiện kiểm định chất lượng và có nhiều chương trình đạt chuẩn khu vực, quốc tế.
Công bằng giáo dục được cải thiện nhờ chính sách hỗ trợ học sinh nghèo, vùng khó khăn, dân tộc thiểu số, giúp gia tăng tỷ lệ nhập học của nhóm yếu thế. Quá trình chuyển đổi số sau đại dịch COVID-19 đã thúc đẩy xây dựng kho học liệu số, dạy học trực tuyến và quản trị hiện đại, đặt nền móng cho hệ sinh thái giáo dục số của Việt Nam.
Hiện nay, trong bối cảnh thế giới có những thay đổi sâu sắc, toàn diện, đặc biệt công nghệ số và trí tuệ nhân tạo đang tái định hình nền giáo dục trên phạm vi toàn cầu, mỗi quốc gia đều phải xác định tầm nhìn và chiến lược mới cho hệ thống giáo dục trong tương lai.
Đất nước ta đang đứng trước vận hội lịch sử để phát triển bứt phá, yêu cầu xây dựng con người, xây dựng nguồn nhân lực đặt ra rất quan trọng và cấp bách. Chính vì vậy, ngày 22/8/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký ban hành Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.
Nghị quyết đặt mục tiêu đến năm 2030 xây dựng mạng lưới trường lớp cơ bản đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh thuộc mọi đối tượng, vùng miền; có ít nhất 80% trường phổ thông đạt chuẩn quốc gia. Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3 đến 5 tuổi và giáo dục bắt buộc hết Trung học Cơ sở; ít nhất 85% người trong độ tuổi hoàn thành cấp Trung học Phổ thông và tương đương, không có tỉnh, thành phố đạt dưới 60%. Chỉ số giáo dục đóng góp vào chỉ số phát triển con người (HDI) đạt trên 0,8, trong đó chỉ số bất bình đẳng giáo dục giảm xuống dưới 10%.
Bên cạnh đó, phấn đấu 100% cơ sở giáo dục đại học và ít nhất 80% cơ sở giáo dục nghề nghiệp đạt chuẩn quốc gia, 20% cơ sở được đầu tư hiện đại tương đương các nước phát triển ở châu Á. Tỉ lệ người lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở lên đạt 24%. Tỉ lệ người học các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật và công nghệ đạt ít nhất 35%.
Nâng tầm các cơ sở giáo dục đại học thực sự trở thành các trung tâm nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp của quốc gia và của các vùng. Phấn đấu ít nhất 8 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 200 đại học hàng đầu châu Á, ít nhất 1 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 100 đại học hàng đầu thế giới trong một số lĩnh vực.
Mục tiêu đến năm 2035, nước ta hoàn thành phổ cập Trung học Phổ thông và tương đương; chỉ số giáo dục đóng góp vào chỉ số HDI đạt trên 0,85; phấn đấu ít nhất 2 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 100 đại học hàng đầu thế giới trong một số lĩnh vực.
Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam có hệ thống giáo dục quốc dân hiện đại, công bằng và chất lượng, đứng vào nhóm 20 quốc gia hàng đầu thế giới; phấn đấu ít nhất 5 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 100 đại học hàng đầu thế giới trong một số lĩnh vực theo các bảng xếp hạng quốc tế uy tín.
Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam đảm bảo cung ứng đầy đủ sách giáo khoa cho năm học mới 2025 - 2026. Ảnh: Thanh Tùng/TTXVN
Trong Thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (15/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: "Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu".
Sau 80 năm, Nghị quyết mới về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo được kỳ vọng trở thành cột mốc lớn trong hành trình kiến tạo tương lai, biến nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài khoa học, công nghệ trở thành động lực và lợi thế cạnh tranh cốt lõi, đưa đất nước vững bước vào kỷ nguyên mới.
Việt Hà (TTXVN)
Nguồn Tin Tức TTXVN : https://baotintuc.vn/giao-duc/nhung-cuoc-cai-cach-lon-kien-tao-nen-giao-duc-phat-trien-toan-dien-20250828090348125.htm