Những dấu ấn của vụ binh biến 'Hà thành đầu độc'

Những dấu ấn của vụ binh biến 'Hà thành đầu độc'
6 giờ trướcBài gốc
Khu tưởng niệm nghĩa sĩ trong vụ “Hà thành đầu độc”
“Coi cái chết nhẹ tựa lông hồng”
Đó là nhận xét trong cuốn ghi chép của tác giả người Pháp Ajalbert khi viết về các nghĩa sĩ trước giờ hành quyết: “... Tóc búi ngược trên trán, những người tù bị cột chặt trước bọn đao phủ mặc đồ đen, lưỡi lê tuốt trần... Những người sắp chết muốn nói. Dương Bê cất tiếng bảo kẻ hành hình mình: “Anh hãy bảo cho vợ tôi, có lẽ đang đứng ở trong đám đông kia rằng, nếu đầu tôi được lìa ngọt khỏi cổ, thì tôi thưởng cho anh 5 đồng bạc”. Đặng Đình Nhân thì nhắn vợ ghi 3 chữ “Phó Đề đốc” lên linh bài thờ mình. Nguyễn Trị Bình, với một giọng quyết liệt, đã nói: “Tôi cảm ơn những người Âu đã đến đây đông để nhìn tôi chết... Chết như thế này là một cái chết nhẹ nhàng...”. Thật là những con người nghĩa khí, họ chẳng hề run sợ khi bị dẫn lên đoạn đầu đài. Họ là những người yêu nước tham gia vụ “Hà thành đầu độc” cách đây hơn 1 thế kỷ.
Ngược dòng lịch sử, đầu thế kỷ 20, dưới sự chỉ đạo của cụ Hoàng Hoa Thám và cụ Phan Bội Châu, một kế hoạch táo bạo được vạch ra. Người của cụ Đề Thám sẽ đầu độc số lính Pháp đóng tại Hà Thành, tạo thời cơ thuận lợi cho số binh lính người Việt nổi dậy, phối hợp với nghĩa quân từ nhiều hướng đánh vào giải phóng Hà Nội. Theo phương án, toàn bộ lực lượng được chia làm 3 mũi. Một đội quân đánh thắng vào Đồn Thủy (khu vực Bệnh viện Trung ương quân đội 108 ngày nay - PV). Một đội khác chờ sẵn trong các thuyền gần xưởng thuốc lá từ Cửa Bắc đánh thốc vào thành. Đội thứ ba, trong đó có 20 người của Đề Thám được trang bị súng lục chờ sẵn ở đám đất trước cửa vọng lâu của Phủ Toàn quyền để đánh vào trại lính khố đỏ ở phía Tây. Hiệu lệnh là 3 phát súng đại bác.
Gốc đa linh thiêng chứng kiến sự hy sinh oai hùng của các nghĩa sĩ
Theo mệnh lệnh, đêm 27-6-1908, quân khởi nghĩa sẽ tấn công. Nhiệm vụ quan trọng nhất trong toàn bộ kế hoạch là phải đầu độc nhằm làm tê liệt số lính Pháp. Những người trực tiếp đầu độc là cụ bếp Hiên (tức Hai Hiên), bếp Xuân, bếp Nhiếp... Thuốc độc được làm từ cà độc dược. Những người tổ chức còn phân phát cho binh lính tham gia vụ nổi dậy một mảnh vải in những ám hiệu riêng để có thể nhận ra nhau khi chính biến.
Đúng kế hoạch, độc dược được bí mật cho vào các khẩu phần ăn của lính Pháp. Trong phòng ăn ở của các đại đội thuộc Trung đoàn Bộ binh thuộc địa số 9 và Trung đoàn Pháo binh số 47, những suất ăn được bưng lên. Khoảng 5 - 10 phút sau bắt đầu lẻ tẻ xuất hiện những trường hợp đau bụng rồi lan rộng ra toàn phòng ăn. Khoảng 200 lính Pháp đã trúng độc, lệnh báo động khẩn cấp được loan ra, nhân viên y tế được cử đến cứu chữa. Mặt khác, một mật lệnh được thi hành: Toàn bộ số lính người Việt lập tức bị thu hết vũ khí và bị cấm trại 100%. Thì ra đã có một người lính trong số binh lính người Việt đã đến xưng tội ở Nhà thờ lớn. Vị linh mục biết tin liền báo ngay cho nhà cầm quyền Pháp. Vả lại, hành tung của cụ Hai Hiên - người chỉ đạo cuộc đầu độc - đã bị mật thám Pháp để ý từ lâu. Chúng lường trước âm mưu binh biến của số binh lính người Việt nên khi xảy ra cuộc khởi nghĩa đã kịp thời ứng phó.
Sau khi vụ khởi nghĩa thất bại, đã có 49 nhà yêu nước bị bắt giữ. Thực dân Pháp kết án 37 vị, trong đó có 18 vị bị tuyên tử hình (5 vị bị kết án vắng mặt). Trong danh sách 13 người bị hành quyết có cụ Hai Hiên và một số bính lính người Việt như cụ Nguyễn Trị Bình, cụ Dương Bê, cụ Đặng Đình Nhân (tức Đội Nhân - người đã được đặt tên phố của Hà Nội). Ngày 17-7-1908, các cụ Bình, Bê và Nhân bị giặc đem ra xử chém. Hành quyết xong 3 nghĩa sĩ dũng cảm, thực dân Pháp đem đầu của họ đi bêu nhằm làm thui chột tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Ba tháng sau, ngày 7-10-1908, chúng tiếp tục hành quyết 9 người còn lại tại khu vườn Bàng gần chợ Bưởi. Cũng như 3 người đã bị hành hình trước đó, 9 chiến sĩ yêu nước đã bị bọn đao phủ chặt đầu mang đi nơi khác, còn xác thì chôn chung vào một hố.
Nhà bia tưởng niệm liệt sĩ phường Nghĩa Đô
Nghĩa Đô ôm trọn anh hùng
Câu hỏi “khu đất chôn các cụ ở đâu?” là một hành trình tìm kiếm lâu dài của người dân và con cháu các nghĩa sĩ trong vụ “Hà thành đầu độc”. Một số tài liệu viết rằng: “Bãi Bàng gần chợ Bưởi là nơi hành hình và chôn cất các nghĩa sĩ bị thực dân xử chém. Năm 1925, ông Thiếu được quan điền thổ cho trông coi một vùng đất rộng lớn, trong đó có khu bãi Bàng, nên đã lập thành một trang trại nuôi bò và đã di dời mộ các nghĩa sĩ ra khu vực khác cách đó chừng 300m. Khi máy bay Mỹ đánh phá Hà Nội, người dân đào hầm trú ẩn đã đào phải một vài ngôi mộ. Sau này, ông Khải (cháu của cụ Hai Hiên) được sự giúp đỡ của người dân đã tìm thấy khu vực chôn cất cha ông mình và tiến hành tôn tạo, xây dựng khu mộ của cả 9 nghĩa sĩ”.
Cách đây hơn 20 năm, theo sự chỉ dẫn trong hồ sơ của cơ quan văn hóa, tôi đã tìm đến khu vườn nhà ông Nguyễn Đức Hỷ tại xóm 2, phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, nơi có khu mộ của 9 cụ nằm trong một bãi đất trũng ở góc vườn. Đó là thời kỳ Nghĩa Đô còn giữ nét đặc trưng làng xã, chưa đô thị hóa như hiện nay. Lần này trở lại đã hình thành con đường to đẹp Võ Chí Công chạy qua nên khó định hình được đường vào khu vực vườn nhà ông Hỷ. Nhưng nhờ sự trợ giúp của người dân, tôi tìm đến chỗ “cụ đa”, nơi có cổng làng Trung Nha xưa trên đường Võ Chí Công. Nghe nói “cụ đa” linh thiêng đã có hơn 500 tuổi và chứng kiến bao thăng trầm của Thủ đô cũng như vùng đất Nghĩa Đô này.
Di tích nhà tù Hỏa Lò nơi từng giam giữ các nghĩa sĩ vụ “Hà thành đầu độc”
Từ gốc “cụ đa nhìn sang phải là Nhà bia tưởng niệm liệt sĩ phường Nghĩa Đô (có địa chỉ tại đầu ngõ 28 đường Võ Chí Công). Phía sau nhà bia là Khu tưởng niệm nghĩa sĩ trong vụ “Hà thành đầu độc” năm 1908. Nơi đây có dựng một bia đá, chân đế được làm bằng đá nguyên khối, trên bia khắc lời tri ân 13 nghĩa sĩ tham gia vụ đầu độc quân Pháp tại Hà Nội. Công trình này được khởi dựng vào tháng 7-2016 trên chính khu đất các nghĩa sĩ bị hành hình. Được biết, hiện nay phần mộ của 9 cụ vẫn nằm trong khu đất nhà ông Nguyễn Đức Hỷ. Nếu người dân muốn tới thắp hương trên phần mộ các nghĩa sĩ có thể tìm đến tổ 12, phường Nghĩa Đô (đi ngõ 28/9 đường Võ Chí Công vào). Con cháu cụ Hỷ hiện vẫn đang sinh sống trên khu đất này.
Vụ “Hà thành đầu độc” tuy thất bại, song ý nghĩa của nó đối với phong trào yêu nước đầu thế kỷ 20 ở Việt Nam đã được các nhà sử học ghi nhận. Sự hy sinh của các nghĩa sĩ thể hiện tinh thần quật khởi của người Việt Nam, quyết không chịu làm nô lệ dưới ách đô hộ của thực dân Pháp. Khu mộ của các nghĩa sĩ và bia đá ghi lại sự hy sinh của họ là một địa chỉ về nguồn cần gìn giữ cho thế hệ mai sau.
Trần Minh
Nguồn ANTĐ : https://anninhthudo.vn/nhung-dau-an-cua-vu-binh-bien-ha-thanh-dau-doc-post615356.antd