Những dấu mốc lịch sử trong chặng đường 50 năm của Ủy ban Biên giới quốc gia

Những dấu mốc lịch sử trong chặng đường 50 năm của Ủy ban Biên giới quốc gia
một ngày trướcBài gốc
Ngày 19/9/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu khi gặp gỡ với các cán bộ, chiến sỹ Đại đoàn quân Tiên Phong tại Đền Hùng đang trên đường hành quân về tiếp quản Thủ đô đã căn dặn “Bác cháu ta gặp nhau ở đây trong tình cờ nhưng lại rất có ý nghĩa. Ngày xưa các Vua Hùng đã có công dựng nước, ngày nay Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước...Trải qua bao thời đại đấu tranh, ông cha ta mới giữ được Thủ đô, tám chín năm nay, do quân ta kiên quyết kháng chiến nên mới có thắng lợi trở về Hà Nội. Vì thế các chú được Trung ương và Chính phủ giao cho nhiệm vụ tiếp quản Thủ đô là một vinh dự lớn”.
Lời căn dặn được trích dẫn đầy đủ ở trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói lên tất cả không chỉ về lịch sử dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm của dân tộc ta, mà còn nhắc nhở tất cả các thế hệ cán bộ chiến sỹ, công dân, người Việt Nam ở trong và ở nước ngoài về trách nhiệm gìn giữ non sông, gấm vóc, bảo vệ nền độc lập chính trị và chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam.
Đại sứ Trịnh Đức Hải, Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia, Bộ Ngoại giao. (Ảnh: Thành Long)
Sau khi hòa bình được lập lại tại miền Bắc, vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu manh nha xuất hiện và hai Bên đã bắt đầu trao đổi nhiều lần. Tháng 11/1957, Ban Bí thư Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã gửi thư cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc nhấn mạnh: “Vấn đề quốc giới là một vấn đề quan trọng cần giải quyết theo những nguyên tắc pháp lý hiện có hoặc được xác định lại do chính phủ hai nước quyết định; nhất thiết cấm nhà chức trách địa phương không được thương lượng với nhau để cắm lại mốc hoặc cắt nhượng đất cho nhau”. Đây là quan điểm phù hợp với luật pháp quốc tế và thực tiễn quốc tế, đảm bảo tôn trọng đường biên giới lịch sử do hai Công ước Pháp - Thanh năm 1887 và 1895 hoạch định và đã được Pháp và nhà Thanh phân giới cắm mốc. Tháng 4/1958, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc trả lời đồng ý với quan điểm của Đảng Lao Động Việt Nam.
Ngày 20/2/1959, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Nghị quyết thành lập Ban Biên giới để giúp TƯ Đảng và Chính phủ theo dõi và chỉ đạo công tác biên giới, nghiên cứu và kiến nghị những chính sách, biện pháp cụ thể giải quyết công tác biên giới; tổ chức việc phối hợp giữa các ngành có liên quan trong phạm vi hoạt động ở biên giới.
Giai đoạn từ 10/1975 đến 5/1993
Nhận thức được tầm quan trọng đặc biệt của công tác biên giới lãnh thổ, chỉ 6 tháng sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, non sông nay đã liền một dải, ngày 6/10/1975 Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã quyết định thành lập Ban Biên giới của Hội đồng Chính phủ.
Nghị định thành lập Ban Biên giới do Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng ký đã nhấn mạnh rất rõ nhiệm vụ chính trị và cũng là sứ mệnh của Ban Biên giới của Hội đồng Chính phủ: “Giúp Hội đồng Chính phủ tăng cường chỉ đạo việc bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, biên giới trên đất và trên biển, các hải đảo, thềm lục địa và bảo vệ các tài nguyên thiên nhiên và quyền quốc gia ngoài biển của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”. Để có thể giúp Hội đồng Chính phủ thực hiện được những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng như trên, Nghị định năm 1975 quy định Ban Biên giới của Hội đồng Chính phủ bao gồm: một Trưởng Ban cấp Bộ trưởng, một Phó Trưởng ban cấp Thứ trưởng, và một số ủy viên cấp Thứ trưởng; một số cán bộ cấp Tướng của Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng và Trợ lý Bộ trưởng của Bộ Ngoại giao.
Trong giai đoạn từ 10/1975 đến 5/1993, Ban Biên giới của Hội đồng Chính phủ hoạt động dưới hình thức của một Hội đồng liên Bộ, và đã tham mưu cho Lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Hội đồng Chính phủ ban hành Tuyên bố ngày 12/5/1977 của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam. Với việc đưa ra Tuyên bố năm 1977, Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trong khu vực và trên thế giới chính thức đưa ra chủ trương về vùng đặc quyền kinh tế trong khi Hội nghị lần thứ III của Liên hợp quốc về Luật biển còn đang diễn ra và chế định vùng đặc quyền kinh tế vẫn còn là một vấn đề mới gây nhiều tranh cãi và ý kiến khác nhau tại Hội nghị của Liên hợp quốc về Luật biển.
Ngoài ra, Ban Biên giới cũng đã trực tiếp chủ trì hoặc tham gia đàm phán giải quyết nhiều vấn đề lớn quan trọng về biên giới lãnh thổ giữa Việt Nam với các nước láng giềng hữu quan, nổi bật là:
Với Lào: Trong giai đoạn từ 1975 đến 1990, ta và Lào đã nỗ lực đàm phán để đi đến ký kết Hiệp ước hoạch định biên giới đất liền giữa Việt Nam và Lào (ký ngày 18/7/1977). Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới Việt Nam-Lào (24/1/1986); Hiệp định Quy chế biên giới quốc gia giữa Việt Nam và Lào (ký ngày 1/3/1990).
Việc ta và Lào hoàn tất quá trình hoạch định và phân giới cắm mốc biên giới đất liền là một thành quả hết sức có ý nghĩa vì đường biên giới đất liền giữa Việt Nam và Lào là đường biên giới đất liền không chỉ dài nhất (khoảng 2.337 km) giữa ta với 3 nước láng giềng đất liền, mà còn là đường biên giới có địa hình địa lý tự nhiên phức tạp nhất, và cơ sở dữ liệu về lịch sử, pháp lý cũng không đầy đủ.
Với Campuchia: Trong giai đoạn từ 1975 đến 1993, ta đã đàm phán và ký kết một số điều ước song phương hết sức quan trọng với Campuchia về biên giới lãnh thổ như: Hiệp định vùng nước lịch sử Việt Nam-Campuchia (ký ngày 07/7/1982); Hiệp định về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới Việt Nam - Campuchia (ký ngày 20/7/1983); Hiệp định về quy chế biên giới Việt Nam-Campuchia (ký ngày 20/7/1983); Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa Việt Nam và Campuchia ký ngày 27/12/1985. Những văn kiện pháp lý này có ý nghĩa chính trị, ngoại giao và pháp lý hết sức quan trọng, giúp giải quyết về căn bản một số tranh chấp chủ quyền kéo dài từ thời kỳ thực dân - bảo hộ.
Với Malaysia: Ta và Malaysia là láng giềng trên biển và có vùng biển chồng lấn trong Vịnh Thái Lan và có yêu sách thềm lục địa chồng lấn ngoài 200 hải lý tính từ đường cơ sở ở Biển Đông. Ngoài ra ta và Malaysia cũng có vấn đề tranh chấp về chủ quyền đối với một số thực thể thuộc quần đảo Trường Sa. Trong Vịnh Thái Lan, vùng biển chồng lấn giữa hai Bên được hình thành từ yêu sách thềm lục địa năm 1971 của chính quyền Sài Gòn và tuyên bố năm 1977 của ta và yêu sách thềm lục địa năm 1979 của Malaysia.
Hai Bên bắt đầu đàm phán về phân định thềm lục địa trong Vịnh Thái Lan vào đầu những năm 1990. Tuy nhiên sau khi nhận thấy việc tiếp tục đàm phán sẽ khó có thể sớm đưa đến kết quả công bằng mà hai Bên có thể chấp nhận được, hai Bên đã quyết định tạm dừng đàm phán phân định và đàm phán về thỏa thuận hợp tác về thăm dò và khai thác chung dầu khí Việt Nam-Malaysia tại khu vực chồng lấn.
Thỏa thuận về khai thác chung giữa hai Bên đã được ký ngày 5/6/1992 và vẫn tiếp tục có hiệu lực cho đến ngày hôm nay. Đây là thỏa thuận về khai thác chung đầu tiên mà ta ký với một quốc gia Đông Nam Á trước khi Ta gia nhập ASEAN và cũng là thỏa thuận khai thác chung duy nhất cho đến nay giữa Việt Nam với một quốc gia láng giềng trên biển.
Ngày 8/5/1993, Ban Biên giới của Hội đồng Chính phủ trở thành Ban Biên giới của Chính phủ sau khi Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt ký Nghị định số 21/CP xác định: “Ban Biên giới của Chính phủ là cơ quan thuộc Chính phủ, có chức năng quản lý Nhà nước và chỉ đạo công tác biên giới, lãnh thổ quốc gia, xác định chủ quyền và các quyền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên đất liền, trên biển, trên không, các hải đảo và thềm lục địa Việt Nam”. Tổ chức bộ máy của Ban Biên giới của Chính phủ gồm có: Vụ Biên giới Việt - Trung; Vụ Biên giới phía Tây; Vụ Biển; Trung tâm Thông tin - Tư liệu; Văn phòng.
Ban Biên giới của Chính phủ cũng được giao nhiệm vụ làm cơ quan thường trực và bộ máy giúp việc của Ban Chỉ đạo về các vấn đề liên quan đến Biển Đông và Trường Sa (nay là Ủy ban Chỉ đạo Nhà nước về Biển Đông - Hải đảo).
Trong giai đoạn từ 5/1993 đến 10/2001, Ban Biên giới của Chính phủ đã chủ trì hoặc tham gia trực tiếp đàm phán ký kết nhiều điều ước quốc tế, thỏa thuận quan trọng về biên giới lãnh thổ, điển hình là:
Với Thái Lan: Hai Bên đã đàm phán từ năm 1992 đến 1997 và đã ký kết Hiệp định về phân định ranh giới trên biển giữa hai nước trong Vịnh Thái Lan vào ngày 09/8/1997. Đây là hiệp định phân định biển đầu tiên mà Việt Nam ký kết với một nước, chấm dứt ¼ thế kỷ tranh cãi giữa hai nước về giải thích và áp dụng Luật biển quốc tế trong phân định, và cũng là hiệp định phân định biển đầu tiên được ký kết giữa các quốc gia thành viên ASEAN sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN vào năm 1995 và sau khi UNCLOS 1982 có hiệu lực (cả Việt Nam và Thái Lan đều ký kết và phê chuẩn UNCLOS 1982).
Theo Hiệp định, Việt Nam được hưởng 1/3 và Thái Lan được hưởng 2/3 diện tích khu vực chồng lấn yêu sách thềm lục địa có diện tích khoảng 6.074 km2 (khu vực chồng lấn này hình thành lên từ yêu sách thềm lục địa năm 1971 của chính quyền Sài Gòn và yêu sách thềm lục địa năm 1973 của Thái Lan).
Hai Bên cũng nhất trí coi đường phân định thềm lục địa cũng là đường phân định vùng đặc quyền kinh tế. Sau khi hiệp định được ký kết, hoạt động quản lý biển, đánh bắt hải sản đi vào nền nếp, tình hình trên biển đi vào ổn định, công tác thăm dò dầu khí giữa hai Bên được tiến hành mạnh mẽ và đạt kết quả tích cực. Hai Bên cũng đã triển khai công tác tuần tra chung của các lực lượng chức năng trên biển, mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực phòng chống tội phạm trên biển như đánh bắt hải sản trái phép, cướp có vũ trang trên biển...
Với Trung Quốc: Sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ (1991), hai Bên đã trao đổi quan điểm nhằm xúc tiến các cuộc đàm phán song phương đi đến một giải pháp lâu dài cho vấn đề biên giới lãnh thổ. Ngày 7/11/1991, trong chuyến thăm chính thức Trung Quốc, Tổng Bí thư Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt đã thỏa thuận với Tổng Bí thư Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân: “Hai Bên đồng ý thông qua thương lượng giải quyết hòa bình vấn đề biên giới lãnh thổ tồn tại giữa hai nước”.
Tháng 11/1991 hai nước đã ký kết Hiệp định tạm thời về giải quyết công việc trên vùng biên giới hai nước. Năm 1993, hai Bên đã ký kết Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa Việt Nam và Trung Quốc (ký ngày 19/10/1993), trong đó đặc biệt liên quan đến vấn đề biên giới trên bộ, hai Bên đồng ý căn cứ vào Công ước hoạch định biên giới giữa Trung Quốc và Pháp ký ngày 26/6/1887 và Công ước bổ sung Công ước này ký ngày 20/6/1895 cùng các văn kiện và bản đồ hoạch định và cắm mốc biên giới kèm theo đã được 2 Công ước này xác nhận hoặc quy định, cũng như các mốc quốc giới cắm theo quy định để đối chiếu xác định lại toàn bộ đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Liên quan đến phân định Vịnh Bắc Bộ (Delimitation), hai Bên đồng ý sẽ áp dụng Luật biển quốc tế và tham khảo thực tiễn quốc tế, để tiến hành đàm phán phân định Vịnh Bắc Bộ. Hiệp định cũng quy định nguyên tắc đàm phán phân định theo nguyên tắc công bằng “Nhằm đạt được thỏa thuận về phân định Vịnh Bắc Bộ, hai Bên cần theo nguyên tắc công bằng và tính đến mọi hoàn cảnh hữu quan trong Vịnh Bắc Bộ để đi đến một giải pháp công bằng”.
Trên cơ sở Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản năm 1993, hai Bên đã tiến hành đàm phán đồng thời về hoạch định biên giới trên bộ và phân định Vịnh Bắc Bộ. Ngày 30/12/1999, hai nước đã ký Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc (có hiệu lực từ ngày 6/7/2000). Liên quan đến Vịnh Bắc Bộ, hai nước đã ký Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ vào ngày 25/12/2000 (hai Bên bắt đầu đàm phán từ năm 1974).
Lễ ký Hiệp định giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Trung Hoa về phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước trong Vịnh Bắc Bộ, ngày 25/12/2000. (Ảnh: Tư liệu)
Bước ngoặt trong lịch sử 50 năm của Ủy ban Biên giới quốc gia là việc Ban Biên giới của Chính phủ sáp nhập về Bộ Ngoại giao theo Quyết định số 157 ngày 17/10/2001 của Thủ tướng Chính phủ, theo đó: “Ban Biên giới quốc gia là cơ quan cấp tổng cục trực thuộc Bộ Ngoại giao, giúp Bộ trưởng Bộ Ngoại giao thực hiện chức năng quản lý nhà nước về biên giới, lãnh thổ quốc gia”.
Ngày 1/8/2007, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 126/2007/QĐ-TTg về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban Biên giới quốc gia trực thuộc Bộ Ngoại giao. Như vậy, tên gọi “Ủy ban Biên giới quốc gia” thay thế cho tên gọi “Ban Biên giới quốc gia” được sử dụng từ ngày 1/8/2007.
Thực hiện Kế hoạch số 141/KH-BCĐTKNQ18 ngày 6/12/2024 về định hướng sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của Chính phủ của Ban Chỉ đạo Chính phủ về tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, Ủy ban Biên giới quốc gia tiếp tục được sắp xếp lại và trở thành đơn vị cấp Cục thuộc Bộ Ngoại giao. Hiện nay, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về biên giới, lãnh thổ, Ủy ban Biên giới quốc gia có gần 100 cán bộ, công chức và người lao động, hoạt động trong bộ máy gồm 08 đơn vị cấp Phòng: Phòng Phân định và Hợp tác biển; Phòng Chủ quyền và Hoàng Sa, Trường Sa; Phòng Biên giới đất liền Việt - Trung; Phòng Biên giới đất liền phía Tây; Phòng Chính sách - Pháp lý; Phòng Thông tin - Dữ liệu; Phòng Tài chính - Quản trị và Văn phòng.
Trong giai đoạn từ khi sáp nhập về Bộ Ngoại giao (10/2001 đến nay), Ủy ban Biên giới quốc gia đã trực tiếp chủ trì xây dựng nhiều văn bản rất quan trọng về biên giới lãnh thổ, trực tiếp chủ trì đàm phán về phân giới cắm mốc trên đất liền, đàm phán phân định và hợp tác biển với các nước hữu quan, chủ trì đàm phán các văn kiện đa phương về Biển Đông (Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông từ năm 2018 đến nay)...
Nếu so sánh với giai đoạn 25 năm trước đó (10/1975 - 10/2001), chúng ta có thể tự hào nói rằng giai đoạn 25 năm sau, khi Ủy ban Biên giới quốc gia đã trở thành một đơn vị của Bộ Ngoại giao, Ủy ban đã tiếp tục phát huy thành quả của những thế hệ đi trước, tiếp tục gặt hái và đạt được nhiều thành quả có ý nghĩa to lớn và quan trọng không kém các thế hệ đàn anh.
Những thành tích nổi bật trong giai đoạn từ 10/2001 đến 10/2025
Về công tác biên giới trên bộ
Tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc
Lịch sử phát triển của Ủy ban Biên giới quốc gia trong 50 năm qua luôn gắn liền với tiến trình giải quyết vấn đề biên giới đất liền Việt Nam-Trung Quốc. Sau khi hai nước đã ký Hiệp ước hoạch định biên giới trên đất liền vào tháng 12/1999, hai Bên đã phải mất 7 năm là kết quả đấu tranh kiên trì cả trên thực địa và trên bàn đàm phán của ta, tạo cơ sở pháp lý cho việc phân giới cắm mốc nhằm xác định đường biên giới pháp lý thành đường biên giới thật sự trên thực địa. Đàm phán về phân giới cắm mốc kéo dài trong 8 năm từ 12/2001 đến 31/12/2008, bắt đầu bằng việc cắm mốc 1369 (2) tại Móng Cái (Quảng Ninh) - Đông Hưng (Quảng Tây).
Ngày 18/11/2009, đại diện Chính phủ hai nước đã ký 3 văn kiện pháp lý về biên giới đất liền Việt Nam-Trung Quốc: Nghị định thư phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền, Hiệp định về Quy chế quản lý biên giới trên đất liền, Hiệp định về cửa khẩu và Quy chế quản lý cửa khẩu biên giới trên đất liền. 03 văn kiện lịch sử này đánh dấu lần đầu tiên trong lịch sử quan hệ song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc, hai nước đã xác định rõ ràng cả về pháp lý và trên thực địa một đường biên giới đất liền với một hệ thống mốc giới hiện đại gồm 1.971 cột mốc (trong đó có 1 mốc ngã ba biên giới Việt Nam-Lào-Trung Quốc) với 1.548 mốc chính, 422 mốc phụ, đặt nền tảng vững chắc cho việc xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định lâu dài, hợp tác và phát triển, mở ra cơ hội mới cho công cuộc phát triển kinh tế của mỗi nước, tăng cường giao lưu hữu nghị.
Tuyến biên giới đất liền Việt Nam-Lào là đường biên giới trên đất liền dài nhất của Việt Nam với một quốc gia láng giềng, với địa hình hết sức phức tạp, hiểm trở. Năm 2008, hai Bên đã thỏa thuận thực hiện công tác tăng dày và tôn tạo mốc giới và công việc này đã kéo dài trong 8 năm (2008 - 2016). Hai Bên đã hoàn thành việc xác định vị trí mốc biên giới và hoàn thiện hồ sơ 1.002 cột mốc và cọc dấu biên giới, tạo tiền đề cho công tác bảo vệ biên giới, hợp tác thương mại, đầu tư và giao lưu kinh tế, văn hóa, du lịch của nhân dân vùng biên giới, góp phần củng cố an ninh chính trị, giữ vững an ninh, quốc phòng trong vùng biên giới, thúc đẩy quan hệ hữu nghị, ổn định, hợp tác, phát triển của hai nước.
Tuyến biên giới đất liền Việt Nam-Campuchia
Sau khi ký Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia năm 1985, hai Bên đã tiến hành phân giới cắm mốc trên thực địa. Năm 2005, hai nước đã ký Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới năm 1985. Từ năm 2005 đến 2018 hai Bên đã nỗ lực đàm phán về phân giới cắm mốc trên thực địa và đến 2018 đã hoàn thành công tác phân giới cắm mốc đối với 84% chiều dài đường biên giới và năm 2019 hai Bên đã ký Nghị định thư pháp lý hóa thành quả 84% phân giới cắm mốc. Từ năm 2021 đến nay, hai Bên đang tích cực đàm phán về phân giới cắm mốc đối với 16% còn lại, trước mắt tập trung ưu tiên hoàn thành nhóm 6% .
Lễ trao đổi văn kiện phê chuẩn Hiệp ước bổ sung năm 2019 và Nghị định thư PGCM biên giới đất liền giữa nước CHXHCN Việt Nam và Vương quốc Campuchia, tháng 12/2020.
Về công tác bảo vệ chủ quyền đối với các đảo, quần đảo của Việt Nam và các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam:
Trong giai đoạn này, Ủy ban Biên giới quốc gia đã chủ trì nghiên cứu và triển khai thực hiện và hoàn thành nhiều công tác quan trọng liên quan đến việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam đối với các đảo, quần đảo của Việt Nam (nhất là 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa), cũng như các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam ở Biển Đông và trong Vịnh Thái Lan, nổi bật là:
Với Trung Quốc
Ủy ban Biên giới quốc gia là đơn vị chủ trì 3 nhóm công tác trên biển Việt Nam-Trung Quốc (Nhóm công tác về các vấn đề ít nhạy cảm; Nhóm công tác về vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ; Nhóm công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển).
Với Indonesia
Sau khi chuyển về Bộ Ngoại giao, Ủy ban Biên giới quốc gia tiếp tục khẳng định là đơn vị chủ trì trong nghiên cứu, kiến nghị chủ trương và trực tiếp chủ trì đàm phán về phân định biển và hợp tác biển giữa Việt Nam với các nước láng giềng hữu quan. Năm 2003, Ủy ban Biên giới quốc gia đã phối hợp với Vụ Luật pháp và điều ước quốc tế hoàn thành đàm phán phân định thềm lục địa giữa Việt Nam và Indonesia. Từ năm 2010 cho đến năm 2022, Ủy ban Biên giới quốc gia là đơn vị chủ trì và trực tiếp đàm phán phân định vùng đặc quyền kinh tế giữa Việt Nam-Indonesia. Tháng 12/2022, Việt Nam và Indonesia đã hoàn tất đàm phán phân định vùng đặc quyền kinh tế giữa hai nước phù hợp với luật pháp quốc tế, UNCLOS 1982.
Với Malaysia
Tháng 5/2009 ta và Malaysia đã nộp Đệ trình chung về ranh giới ngoài thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý của hai nước ở phía Nam Biển Đông. Hai Bên đã thiết lập Ủy ban hỗn hợp kỹ thuật về ranh giới ngoài thềm lục địa ngoài 200 hải lý (JTEC) để thúc đẩy Ủy ban ranh giới thềm lục địa của Liên hợp quốc (CLCS) sớm xem xét và đưa ra khuyến nghị về Đệ trình chung của hai nước.
Hai Bên cũng tiếp tục duy trì hợp tác về khai thác chung dầu khí tại khu vực chồng lấn thềm lục địa của hai nước trong Vịnh Thái Lan.
Với Philippines
Ta và Philippines có tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ đối với một số thực thể thuộc quần đảo Trường Sa và có vấn đề chồng lấn thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý ở Biển Đông. Năm 2024, cả ta và Philippines đều nộp Đệ trình riêng lên CLCS. Sự kiện này sẽ tạo cơ hội cho hai Bên có thể nghiên cứu khả năng hợp tác tại khu vực chồng lấn thềm lục địa ngoài 200 hải lý ở Biển Đông.
Năm 2024, hai nước đã ký Thỏa thuận giữa hai Bộ Ngoại giao về phòng ngừa và quản lý tranh chấp trên biển và Thỏa thuận hợp tác giữa lực lượng thực thi pháp luật trên biển.
Tại các diễn đàn quốc tế và khu vực:
Ủy ban Biên giới quốc gia là đơn vị chủ trì nghiên cứu, triển khai và nộp 3 Đệ trình của Việt Nam về ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý ở Biển Đông (Ta đã nộp 2 đệ trình tháng 5/2009 trong đó có 1 đệ trình chung với Malaysia và năm 2024 ta đã nộp đệ trình thứ ba); chủ trì đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) giữa các nước ASEAN và Trung Quốc từ năm 2018 đến nay.
Đại sứ Đặng Hoàng Giang, Trưởng Phái đoàn Thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc nộp Hồ sơ đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý của Việt Nam ở Khu vực Giữa Biển Đông cho đại diện Ủy ban ranh giới thềm lục địa của Liên hợp quốc. (Ảnh: Tư liệu)
Các cơ chế tham vấn và đối thoại biển song phương:
Hợp tác biển và đại dương là một trong những nhiệm vụ ngày càng quan trọng trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực ngày càng diễn biến phức tạp khó lường, nhất là tình hình tranh chấp Biển Đông, từ năm 2012, Ủy ban Biên giới quốc gia đã bắt đầu thiết lập các cơ chế đối thoại biển và đại dương song phương với các nước đối tác chiến lược quan trọng. Đến nay, Ủy ban Biên giới quốc gia đã thiết lập và duy trì cơ chế đối thoại biển với Mỹ, Anh, Pháp, Nhật Bản, Australia, New Zealand, Hàn Quốc, Ấn Độ và Canada.
Về công tác xây dựng chính sách và pháp luật
Văn bản pháp luật quan trọng nhất mà Ủy ban Biên giới quốc gia có vinh dự là cơ quan chủ trì soạn thảo là Luật Biển Việt Nam được Quốc hội thông qua năm 2012. Ủy ban Biên giới quốc gia cũng là cơ quan chủ trì nghiên cứu triển khai xây dựng và trình cấp có thẩm quyền xem xét công bố Tuyên bố của Chính phủ ngày 21/2/2025 về đường cơ sở tính chiều rộng lãnh hải trong Vịnh Bắc Bộ.
Ngoài ra, Ủy ban Biên giới quốc gia đã phối hợp với các bộ, ngành chức năng xây dựng một loạt các văn bản pháp lý bao gồm: Luật Biên giới quốc gia 2003, Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo 2015, Luật Thủy sản 2017, Luật Cảnh sát biển 2018, Luật Bộ đội Biên phòng 2020, Luật Dầu khí 2022, Nghị định 34/2014/NĐ-CP ngày 29/4/2014 về quy chế khu vực biên giới đất liền nước Việt Nam, Quy hoạch Không gian biển quốc gia 2024, Chiến lược khai thác, bảo vệ môi trường biển và hải đảo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Thông tư ngày 15/12/2024 của Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành địa danh các đảo, đá, bãi cạn, bãi ngầm và một số đối tượng địa lý khác trên vùng biển Việt Nam.
Về công tác quản lý nhà nước về biển đảo: Ủy ban Biên giới quốc gia là cơ quan chủ trì một số cơ chế chỉ đạo và cơ chế phối hợp liên bộ ngành và địa phương trong công tác biển đảo, điển hình là Văn phòng thường trực Ủy ban Chỉ đạo Nhà nước về Biển Đông - Hải đảo do Thủ tướng là Chủ tịch Ủy ban chỉ đạo. Thông qua cơ chế các Ban Chỉ đạo Nhà nước về Biển Đông - Hải đảo tại các tỉnh thành duyên hải ven biển, Ủy ban Biên giới quốc gia thường xuyên chia sẻ thông tin, hướng dẫn, tham mưu cho các địa phương ven biển nắm vững các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, đồng thời cũng cung cấp các hỗ trợ cần thiết giúp các địa phương triển khai các hoạt động kinh tế biển và các hoạt động xã hội, văn hóa biển.
Chặng đường phía trước
Nhìn lại chặng đường 50 năm đã qua, Ủy ban Biên giới quốc gia tự hào về những cống hiến không ngừng nghỉ, bền bỉ, thầm lặng của các thế hệ cán bộ, công chức, nhân viên của Ủy ban qua các thời kỷ trong sự nghiệp bảo vệ lợi ích quốc gia của Việt Nam về biên giới lãnh thổ, biển đảo, đúng như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh cách đây hơn 70 năm “Các Vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Tuy nhiên chặng đường phía trước đối với Ủy ban Biên giới quốc gia vẫn còn rất nhiều việc mà thế hệ ngày hôm nay và các thế hệ tiếp theo sẽ còn phải tiếp tục thực hiện. Có thể nói ngắn gọn, sự nghiệp bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, giải quyết các tranh chấp bất đồng về biên giới lãnh thổ, biển đảo sẽ là một sự nghiệp lâu dài và sẽ luôn đồng hành cùng với quốc gia, dân tộc trong những chặng đường phía trước.
Hướng tới mục tiêu một trăm năm (1945 - 2045), Ủy ban Biên giới quốc gia sẽ nỗ lực hết sức kiên quyết kiên trì giải quyết các vấn đề phân định biển, các vấn đề phân giới cắm mốc trên bộ, kiểm soát và quản lý tốt hơn các tranh chấp trên biển với các nước láng giềng hữu quan bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở phù hợp với luật pháp quốc tế và thực tiễn quốc tế, góp phần quan trọng vào việc tạo dựng vị thế quốc tế ngày càng quan trọng của Việt Nam với tư cách là một thành viên có trách nhiệm, có tiếng nói ngày càng thực chất và được tôn trọng trong cộng đồng quốc tế.
Đại sứ Trịnh Đức Hải
Nguồn TG&VN : https://baoquocte.vn/nhung-dau-moc-lich-su-trong-chang-duong-50-nam-cua-uy-ban-bien-gioi-quoc-gia-337751.html