Tôi lớn lên khi quê hương đất nước bị chiến tranh, lại là con nhà nghèo thất học. Năm tôi lên 6-7 tuổi, lần đầu tiên tôi được bà nội dắt đưa đi học tại lớp học tư ở xóm. Thời Ngô Ðình Diệm, tôi học được 2 lớp trường tư và 1 lớp trường làng, rồi nghỉ... Tôi biết phụ giúp mẹ, bưng xề bánh còng đi bán; biết đi mót lúa, câu cá, bắt ốc, bắt cua và đi giữ trâu cho dượng Tư ở cánh đồng Mỹ Thạnh... Và Cà Mau, năm 1965, tôi được đi học một lớp học ở ấp, do anh Tư Thủ và chị Út Em giảng dạy.
Ở vùng nông thôn giải phóng, tôi biết cảnh sống nhà nông, làm ruộng chai phồng tay, bàn tay cầm phảng, cù nèo phát cỏ ruộng, cầm dao bứng lúa cây, cầm nọc cấy cấy lúa, cầm vòng hái gặt lúa, cầm cặp gắp lúa đập lúa, biết xay lúa và giã gạo cối gỗ cụp cum chày đôi...
Tuổi thiếu niên, tôi cùng thằng em biết làm liên lạc, được giao nhiệm vụ bơi xuồng đi dọc theo chiều dài kinh Chống Mỹ, đưa thư chi bộ đến Thường trực Xã ủy Trần Hợi, đóng ở Kinh Cũ... Tôi được vào Tổ thông tin ấp, 3 người, có 1 nữ, thường xuyên cầm loa tay (loa thiếc) đi phát loa tin tức thời sự cho bà con nhà 2 bên bờ kinh nghe vào ban đêm...
Tổ Nhiếp ảnh tỉnh Cà Mau chụp ảnh lưu niệm tại vàm Khâu Bè, nhân ngày đưa tiễn Võ An Khánh (hàng sau, thứ hai từ phải sang) về công tác nhiếp ảnh Khu (tháng 6/1969). Ảnh tư liệu
Năm 1967, tôi được địa phương chọn đưa đi học Trường Bổ túc văn hóa tu nghiệp Sư phạm huyện Trần Văn Thời, đào tạo giáo viên cho ấp. Cuối khóa học, các anh động viên và trực tiếp gặp xin ý kiến, được ba má tôi đồng ý cho tôi thoát ly theo kháng chiến, công tác ấn loát Văn phòng Ban Tuyên huấn huyện Trần Văn Thời...
Năm 1969, tôi được phân công đi học lớp hội họa tỉnh Cà Mau, do Họa sĩ Nguyễn Hiệp (Hai Hiệp) trực tiếp hướng dẫn, anh Nguyễn Kiên Ðịnh (Sáu Kiên) làm chủ nhiệm... Khóa học chủ yếu trang bị cho học viên biết cách ký họa và kỹ thuật phóng đại tranh cổ động, thực hiện bằng nước sơn màu trên bảng thiếc, phục vụ kháng chiến ở các địa bàn trong tỉnh.
Chiến tranh diễn ra dày đặc khi Mỹ - ngụy phản kích điên cuồng sau Mậu Thân 1968. Từ mùa thu 1969, Mỹ - ngụy tiến hành chiến dịch “Bình định cấp tốc”, “Nhổ cỏ U Minh”, đánh phá ác liệt huyện Trần Văn Thời. Trong đời tôi đã chứng kiến, chịu đựng và vượt qua mật độ chiến tranh diễn ra cực kỳ ác liệt, ác liệt chưa từng có ở địa bàn trọng điểm giặc tái chiếm Chi khu Rạch Ráng và cứ điểm Bà Thầy, Nổng Cạn, xã Khánh Lâm. Trong đời tôi trải qua 2 lần đánh giặc chỉ còn cái quần cụt và cái khăn rằn vắt vai, đó là một trận bom ngay đội hình (năm 1968), bom dầu cháy nhà, cháy hết đồ đạc, một trận càn (năm 1970), giặc Sư đoàn 21 đổ quân càn quét, đi ngay chỗ tôi giấu đồ, chúng lấy cái trấp đựng quần áo, mùng mền, tập chép tay, hình ảnh và cây đàn Măng-đô-lin...
Trong đời tôi, một lần không chịu lập gia đình vào mùa mưa năm 1970. Thời mới lớn - 20 tuổi, chưa biết yêu là gì. Không muốn lập gia đình để khỏi vướng bận mà chỉ lo đối phó giặc đánh và lo công tác. Trường hợp tôi có khác với nhiều anh em. Tôi nghĩ đó là sự hy sinh, cống hiến. Chi tiết này xem ra khó ai chấp nhận, nhưng là sự thật. Thời chiến, nhìn thấy rõ, thân mình lo không xong mà có vợ thì làm sao gánh nổi... Nếu “nặng gia đình” thì bỏ cuộc hoặc chết luôn...
Qua hơn 2 năm chiến tranh diễn ra ác liệt, vượt qua mấy trận sống chết trong gang tấc... Năm 1972, tôi được phân công đi học Trường Thông tấn Báo chí miền Tây Nam Bộ, mở tại rừng đước Năm Căn... (nội dung chi tiết trong bài “Thương nhớ một người thầy” và “Học làm báo thời chiến tranh”).
Một số cán bộ Tuyên huấn Khu và tỉnh Cà Mau chụp ảnh kỷ niệm tại đê Cơi 5 (năm 1972). Ảnh từ trái sang phải: Phạm Quang Hiến, Võ An Khánh, Bảy Nguyễn, Nguyễn Bá, Bảy Vân và Bảy Khâu. Ảnh tư liệu
Ðầu năm 1973, tôi được rút về Tiểu ban Thông tấn Báo chí tỉnh và công tác tại bộ phận Báo Cà Mau, có mặt ngày 5/1/1973, cơ quan đóng ở Giáp Nước, xã Phú Mỹ A, huyện Cái Nước... Về tỉnh mươi ngày còn mới mẻ, tôi được phân công cùng anh Nguyễn Thanh Sử đi công tác “điểm” xã Ðông Thới cho tới khi Hiệp định Paris chính thức được ký kết ngày 27/1/1973 và có hiệu lực từ 8 giờ sáng ngày 28/1/1973. Ðón nhận ngày hòa bình đầu tiên sau 28 năm chiến tranh, ai cũng reo mừng, réo gọi tin vui chuyền nhau... Thế mà kể từ sau giờ đó, tiếng tàu sắt vang rền và tiếng súng trọng liên của giặc nổ chát chúa ngoài sông Bảy Háp. Một phi đội 3 chiếc máy bay A37 của Mỹ gầm rú quần đảo trên bầu trời và ném bom ầm ầm tuyến kinh xáng Ðội Cường... (nội dung chi tiết trong bài “Về Ðông Thới nhớ thời chiến tranh”).
Tôi bắt đầu làm phóng viên tập sự ở địa bàn rộng lớn của tỉnh với những bỡ ngỡ, khó khăn, thách thức chặng đường dài phía trước và thử thách không nhỏ. Trong bài “Những ngày đầu tập làm báo”, tôi nói rõ: Tôi đi học về mới nửa năm, chỉ làm được vài tờ tin tức huyện, chưa chi lại “nơ” lên tỉnh, làm phóng viên tập sự là đúng, phù hợp với khả năng còn non yếu của mình. Ngay như bài viết đầu tay “Sau ngày ngừng bắn”, theo lời kể của đồng chí Trần Thanh Liêm (Ba Liêm), cán bộ Tỉnh đoàn, dù đã được biên tập và thủ trưởng Ban Tuyên huấn chỉnh sửa khá nhiều, bây giờ đọc lại vẫn thấy dở ơi là dở!
Tôi cũng “đa-rê-năng” ngành tuyên huấn như các anh đi trước, vừa làm phóng viên tập sự, vừa làm việc món... Khi cần được phân công viết vẽ khẩu hiệu, cắt chữ dán băng phục vụ hội nghị cũng được luôn... Ðáng nhớ, sau Hiệp định Paris, tôi cùng các anh đi tiền trạm xã Tân Hưng và tôi được phân công bắt tay kẻ chữ, cắt dán băng cùng địa phương làm cổng chào ở đầu kinh Quảng Sanh, chuẩn bị đón tiếp các nhà báo nước ngoài vào vùng giải phóng Cà Mau, tháng 3/1973... Thời gian đầu về tỉnh, mấy chuyến công tác xa, cơ quan phân công em Châu Thanh Hải (khắc gỗ) cùng đi có bạn với tôi, qua lộ, vượt sông, xuống tận rừng đước kinh Ông Ðơn, trực tiếp giao market, bài vở cho Nhà in Trần Ngọc Hy, sắp chữ chì in Báo Cà Mau hằng tháng... Và rồi, cũng không bao lâu, tôi sớm thích nghi với địa bàn vùng sông nước, dần quen đường sá xa xôi và tự lực đi lại một mình...
Cái thuở ban đầu nếm trải đủ thứ cực, viết chưa đạt, mà không nản lòng, vẫn đeo đuổi làm phóng viên tập sự, gian nan thử thách, nghèo vốn sống cũng là nỗi khổ của người cầm bút... Tin vừa nhận được: Sáng 15/4/1973, một tiểu đoàn bảo an giặc đóng ở ấp Sở Tại, xã Thạnh Phú (huyện Châu Thành thời kháng chiến), cho một đại đội càn quét trên tuyến lộ xe vào Nhà Phấn đã bị ta phục kích tại Xóm Rẫy, diệt 19 tên, bị thương 17 tên, bắt sống 5 tên, thu 13 súng... Tôi được phân công đi thực tế để viết bản tin này. Từ Giáp Nước qua Cống Ðá lộ xe, tới Rạch Dượt, chèo lên Tân Hưng, qua kinh Quảng Sanh, băng qua cánh đồng Cái Nhum, nhờ bà con chỉ đường ra vách lộ xe đoạn Nhà Phấn. Thú thật, tôi không nhận ra đâu là con lộ, chỉ thấy cái bờ ngập nước vô số lau sậy... Công sức đổ đường đi, về lâu lắc, tôi ngồi viết bản tin và đặt nhan đề “Trừng trị quân đội Sài Gòn vi phạm Hiệp định Paris trên tuyến lộ xe Nhà Phấn” cho bảo đảm tính pháp lý theo nhận thức của tôi và cách dùng từ ngữ cũng không còn gọi lính ngụy như trước đó... Tôi nộp bản tin cho anh Lê Hữu Nghiêm (Út Rô) biên tập. Chiều ngày sau, anh gọi tôi đến căn nhà dã chiến của anh, vừa bước vào thấy anh với tay lấy bản thảo, quay ra đưa tôi, cười mà nói vui:
- Mầy viết cái này tao muốn đá cho một đá!
Tôi nhíu mắt, cầm riết về ngồi nắn nót chép lại bản tin vừa được biên tập xong. Khi đưa toàn bộ bài vở nội dung số báo thông qua Ban Tuyên huấn, chú Hai Phú (Lữ Trung Tấn), Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng ban Tuyên huấn tỉnh, đã gạt bản tin này và viết lại chữ đỏ rực, chỉ còn hơn 10 từ là của tôi. Báo đăng rồi, tôi nói với anh Y sĩ Bảy Ðoàn: Bản tin này đúng ra ký bút danh 3 người: Lê - Minh - Phú, rồi xúm nhau cười...
Ông Châu Ngọc Tiếp (Bảy Triển) đọc điếu văn trong buổi lễ truy điệu Lê Kia và Minh Thắng, hai cán bộ nhiếp ảnh vừa hy sinh tại ngọn Cán Gáo. Tính riêng lực lượng nhiếp ảnh Khu 9 đã có 6 đồng chí hy sinh tại rừng tràm U Minh (tháng 10/1969). Ảnh tư liệu
Những năm chiến tranh diễn ra ác liệt, Báo Cà Mau vắng bóng các anh Nguyễn Mai, Trần Thanh Tùng... Có 2 phóng viên bỏ cuộc... Năm 1973, ngoài anh Lê Hữu Nghiêm (Út Rô), Phó tiểu ban Thông tấn Báo chí, phụ trách Báo Cà Mau, còn 2 “hột gạo cội” là anh Nguyễn Duy Vinh và chị Hồng Nhiên. Anh Nguyễn Thanh Sử, cán bộ lâu năm ở Văn phòng Ban Tuyên huấn tỉnh và chị Sáu Kiều, cán bộ phụ trách Tổ in tay thuộc Văn phòng Ban Tuyên huấn tỉnh, được Ban Tuyên huấn tỉnh tăng cường sang công tác ở Báo Cà Mau. Những người mới như tôi, có Nguyễn Thanh Sơn, Trần Tấn Sĩ, anh Hồng Hải Sơn (Út Minh). Hai Nhà báo Phan Hoàng Bân (Phan Anh Tuấn) và Hà Phương Dũng từ Bộ phận Thông tấn lần lượt chuyển qua Báo Cà Mau... Tôi thường nói, không được gần gũi, sống chung với những người nổi tiếng cũng là điều thiệt thòi... Tiếc quá!
Ông Nguyễn Phú Vĩnh (Năm Trấn), mấy tháng đầu năm 1973, được phân công làm Trưởng Tiểu ban Thông tấn Báo chí, phụ trách Báo Cà Mau. Sau đó, ông được điều động về làm Trưởng ban Tuyên huấn huyện Cái Nước...
Tháng 8/1973, các anh Tam Nghị, Bảy Nhẫn, Mười Lai từ Báo Giải Phóng miền Tây Nam Bộ biệt phái về Cà Mau, sống chung cơ quan. Tôi với Mười Lai đi chung chuyến công tác về tới đồng bằng Giá Rai... Chuyến đi này, Mười Lai viết được một bài ca ngợi xã Long Ðiền Tây, Nhà báo Tam Nghị có bổ sung chi tiết “bãi cát vàng thoai thoải” trong bài viết của Mười Lai đăng trên Báo Cà Mau. Còn tôi, chỉ ghi vào ký ức... (nội dung chi tiết trong bài “Chuyến về Giá Rai”).
Cuối năm 1973, tôi được phân công chuyến đi thực tế xa lắc để viết bài “Du kích Biển Bạch”, được Nhà báo Tam Nghị biên tập, không sửa chữ nào, đăng Báo Cà Mau số Xuân Giáp Dần 1974. Chuyến đi này, tôi phải qua 3 trạm: Hai Hỏa, mật danh cơ quan Giao bưu liên lạc tỉnh Cà Mau đóng ở kinh Mười Phải, trạm gần ngã tư Chín Bộ và trạm trên bờ sông Cái Tàu mất 2 ngày 2 đêm. Ðến ngày thứ ba, anh giao liên đưa tôi qua sông Cái Tàu và Sông Trẹm, tôi mới đến được với vùng rẫy thơm Biển Bạch nổi tiếng Thới Bình... Chuyến về, quá giang xuồng, trời tối, bị lạc đường, ngủ trong rừng, quá ư vất vả... (nội dung chi tiết trong bài “Tiếng nổ giữa rừng”).
Năm 1974, khí thế tấn công địch phát triển mạnh mẽ, một loạt đồn bót địch trên tuyến lộ xe Cà Mau - Cái Nước bị diệt, bị bao vây bức rút... Mở ra tuyến đường giải phóng và vùng giải phóng liên hoàn rộng thênh thang... Giữa cuối năm 1974, tôi được phân công thực hiện tấm băng “Ðại hội đánh bại bình định, giải phóng Cà Mau”, phục vụ Ðại hội Ðảng bộ tỉnh, tổ chức ở Vịnh Dừa, do chú Bảy Nông, Bí thư Tỉnh ủy chủ trì...
Sau đó, chúng tôi được lệnh rời Giáp Nước... Với tinh thần khẩn trương, một số anh em đi trước xuống rừng Bù Mắt đốn cây. Tôi cùng Thanh Hải, Thanh Mận chạy máy xuồng be mười thước xuống chở cây về Rau Dừa, cất nhà cơ quan Báo Cà Mau, Nhiếp ảnh, Thông tấn - Minh ngữ.
Với thời gian công tác ở Báo Cà Mau, có những khó khăn, thách thức mà tôi thường gặp phải. Ðó là khả năng, trình độ học vấn, tôi không hề giấu dốt, chuyên môn nghiệp vụ còn non yếu, lại thêm phần do thời tiết làm mất cảm xúc như tôi từng than một mình: ...12 giờ trưa ngày 20/3/1975, hầm hì dữ dội. Nắng gắt. Không một chút gió. Tôi rời cuộc họp xóm ở ngã ba Rạch Cui. Ra đi mà không yên tâm... Ðã là chuyện khó viết - vì không đủ yếu tố, mà lại mệt mỏi, bần thần vì trưa nắng...
Giữa tháng 4/1975, theo bước chân thần tốc của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, chúng tôi được phân công đi chiến dịch giải phóng thị xã Cà Mau... ký ức sống động sự kiện năm nay - 2025 tròn nửa thế kỷ! Chiều tối ngày ấy, chúng tôi tập trung đến điểm tập kết ở bến nước Biện Tràng, cùng lực lượng của 7 đội tuyên truyền xung phong do Ban Tuyên huấn tỉnh thành lập, trong đó có 1 đội thuộc lực lượng Thông tấn Báo chí do anh Bùi Chí Hiếu (Hai Trung), Trưởng đài Minh Ngữ làm đội trưởng, với mục tiêu Chi khu Quản Long, thị trấn Tắc Vân; triển khai kế hoạch hành quân ngay trong đêm, tiến ra các vị trí phía trước... Tôi ở tuyến sau với anh Lê Hữu Nghiêm (Út Rô), Hà Phương Dũng, Châu Thanh Hải (khắc gỗ) lên Cái Rắn, tới Tân Ðức dừng lại, ra phía Ðông, ở nhà đồng bào, chiều 28/4/1975 trở qua Tân Ðức - Rạch Muỗi... (nội dung chi tiết trong bài “Những ngày đi chiến dịch”, “Tiến ra thị xã Cà Mau”).
Tôi có chưa đầy 5 năm, đúng hơn là 4 năm 8 tháng công tác tại Báo Cà Mau (5/1/1973-8/1977). Cụ thể, công tác tại Báo Cà Mau 4 năm (1973-1976), còn thiếu 4 ngày nữa mới đủ 4 năm. Thời gian còn lại, 8 tháng làm phóng viên tập sự Báo Ðồng Khởi tỉnh Bến Tre từ tháng 8/1977.
Tôi khiêm tốn nhận thấy, nếu như hơn 2 năm thời chiến mình đóng góp rất ít ỏi và viết lách chả ra hồn, thì hàng chục năm sau thời bình tôi ngồi lại lần lượt viết từng bài chuyện hồi thời chiến - thuộc đề tài chiến tranh cách mạng qua những sự kiện đong đầy ký ức, kỷ niệm những năm tháng không quên... Ðến nay, tôi có hơn 150 bài viết được đăng trên Báo Cà Mau, Báo ảnh Ðất Mũi (trước đây và vừa qua) và Tạp chí Văn nghệ Cà Mau. Có 10 bài viết được Tổng Biên tập Báo Cà Mau chứng nhận bài được bình chọn có chất lượng trong tuần như: Tôi nghỉ hút thuốc lá, Thiêng liêng hồn đất, Trở lại Ðồng Cùng, Nhớ anh Lê Hữu Nghiêm, Trung đội nữ pháo binh năm ấy, Cái Tết sau cùng ở Rau Dừa, Chị Bảy “Hào Sai”, Chị Tám Kiềng, Xa xôi Kinh Hãng, Nhớ anh Út Nghệ.
Và, sau chót, tôi vẫn luôn tâm đắc và lấy đoạn cuối trong bài báo cùng tên để kết thúc bài viết này: “Những ngày đầu tập làm báo” tưởng dễ ngon xơi lắm, nhưng không đơn giản chút nào. Từ những bản tin viết chưa “sạch nước cản” đến những bài tương đối đạt yêu cầu là cả sự phấn đấu học hỏi của một phóng viên tập sự. Một câu nói của lớp người đi trước mà bất cứ người cầm bút nào cũng thấm thía: Làm báo từ mái tóc xanh cho đến đầu bạc vẫn còn chưa hay!
Cái Nước, cuối tháng 3/2025
Nhà báo Nguyễn Minh Nối
Nguyên phóng viên Báo Cà Mau 1973-1977