Những lá thư còn lại

Những lá thư còn lại
2 giờ trướcBài gốc
Chuyện tình yêu gửi đến mai sau
Điểm đặc biệt của “Thư cho em” chính là lời kể của người con về cuộc tình của ba mẹ qua những câu chuyện hằng ngày, những bức thư còn được giữ gìn để con cháu “biết về quá khứ của ông bà, về một thời đoạn quan trọng trong dòng chảy lịch sử của dân tộc mà ông bà thuộc về”.
Những bức thư mấy chục năm tuổi, giấy đã ố màu, đưa người đọc ngược dòng thời gian về những năm đạn lửa của thế kỷ 20, khi cả nước đi qua cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong đó 2 nhân vật chính là tướng Hoàng Đan, sinh năm 1928 tại Nghi Lộc, người tham gia cách mạng từ sớm và được kết nạp Đảng khi 18 tuổi. Còn bà tên đầy đủ là Nguyễn Thị An Vinh, sinh năm 1933, gia cảnh lúc đầu rất giàu có nhưng về sau thì nghèo túng, từ 8 tuổi đã phải đi ở.
Trong bức thư đề ngày 9/10/1955, tướng Hoàng Đan có nhắc lại về lần gặp gỡ đầu tiên: “Thoáng nhìn qua anh thấy nơi em là một cô học sinh hiền từ, đẹp kín đáo thùy mị... Lúc đó anh chỉ nghĩ: Ai lấy cô này chắc sẽ có hạnh phúc”. Cùng với cảm xúc ban đầu, họ thường hay nghĩ về nhau. “Có một hôm anh mua một cái bút và khắc vào bút chữ Đ và chữ V... Thế là anh quyết định: anh yêu cô Vinh nhiều rồi”. Tình yêu đến tự nhiên nhưng không ngẫu nhiên. Xác định được mục tiêu, ông nhanh chóng hành động như một chỉ huy trước khi bước vào trận đánh và “rất tự tin là em sẽ yêu anh”. Dù đang đi chiến dịch Thượng Lào, ông đã đánh bạo xin thủ trưởng về nhà - vượt qua gần 50 cây số để gặp người yêu rồi lại ra đi vào 1 giờ sáng; là người đã đạp xe 1.300 cây số để về cưới vợ, bởi “hoàn cảnh của anh thì một năm anh có thể về nhà độ 14 ngày và trong những ngày ấy chúng ta có thể thành hôn” (thư ngày 5/7/1954).
Kể cả khi lấy nhau, họ vẫn sống cách xa đằng đẵng. Khi ông ở Hà Nội thì bà ở Lạng Sơn; ông đi học Liên Xô thì bà ở nhà... Họ thường viết thư ôn lại kỷ niệm, như một “sinh hoạt chung”, để “học cách sống xa nhau” rất thú vị và cũng rất đặc trưng thời chiến.
"Xa nhau bao thương nhớ, nhưng nếu thắng lợi thì sự hy sinh đó cũng xứng đáng”, trong chiến tranh, khó có thể nói thắng thua, khó bàn chuyện sống chết khi tên bay đạn lạc, qua mỗi bức thư ta thấy nhịp hành quân hối hả của tướng Hoàng Đan khi bước vào những trận đánh dữ dội – từ Thượng Lào 1953 tới Điện Biên Phủ 1954; từ tổng tiến công xuân Mậu Thân 1968 tới thành cổ Quảng Trị mùa hè năm 1972; từ trận Thượng Đức 1974 tới Dinh Độc Lập trong mùa xuân đại thắng 1975, rồi chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979, năm 1984... với những lời hứa hẹn “em sẽ vĩnh viễn yêu anh mặc dầu có xa cách hay anh có thương tật đi nữa em cũng một lòng yêu anh”... Là nỗi nhớ khi tha thiết, lúc dịu êm của hai người, những hờn giận và trách móc, những nỗ lực thấu hiểu...
Bởi, con đường tình yêu không chỉ tính bằng những cột cây số, những cái nắm tay và nụ hôn ấm áp. Đấy là hành trình nhẫn nại để kết nối hai tâm hồn, để sẻ chia và thấu hiểu.
Nhưng đối với họ tình yêu đôi lứa được đặt phía sau tình yêu đất nước. Cả một đời binh nghiệp, hơn 30 năm tướng Hoàng Đan hầu như không ở nhà, ông dành toàn bộ tuổi trẻ và cuộc đời của mình cho sự nghiệp chiến đấu và bảo vệ Tổ quốc. Chưa một cái tết nào ông ở nhà. Bà An Vinh trong suốt thời gian đó nén lại nỗi nhớ thương xa cách, kiên trì lao động, học tập và phát triển, nuôi con...
Họ, giống như bao người thời đó đã hy sinh hạnh phúc riêng cho nhiệm vụ chung lớn lao là giải phóng dân tộc. Vì thế, “Thư cho em” không chỉ là chuyện của một đôi trai gái, một đôi vợ chồng, mà còn là tình yêu của cả một thế hệ, một thời đoạn của đất nước. Đó thực sự là nguồn cảm hứng lãng mạn cách mạng mà chúng ta phải trân quý. Như chính tác giả Hoàng Nam Tiến đã tự nhận: “Qua nhiều ngày tháng, mỗi lần đọc thư, hiểu về tình cảm ba mẹ, cùng với những ký ức về ba mẹ, tôi đã cảm thấy nỗi thôi thúc phải viết xuống cuốn sách này”.
Những câu chuyện nhỏ - những bài học lớn
“Thư cho em” được chia thành 4 phần: “Đi Điện Biên Phủ về, ta cưới!”; “Hương gây mùi nhớ”; “Thư cho em giữa hai bên súng địch ta vẫn nổ” và “Về đây bên nhau” - tương ứng với các mốc thời gian từ khi vợ chồng ông Hoàng Đan và bà An Vinh nên duyên đến tháng ngày phải xa cách vì chiến tranh, cuối cùng là cuộc sống tuổi già bên nhau. Những câu chuyện nhỏ trong mỗi bức thư đã mang đến cho mỗi người đọc một chiêm nghiệm, suy tư khác nhau về tình yêu và hôn nhân.
Thiếu tướng Hoàng Đan xuất thân trong một gia đình danh giá, được học hành đầy đủ và sớm đi theo cách mạng. Không chỉ nỗ lực học tập và nghiên cứu nghệ thuật quân sự Đông - Tây, vị tướng còn say mê văn học, nghệ thuật, triết học, tâm lý học...
Bà An Vinh xuất thân là một cô bé đi ở, có khát khao đổi thay số phận mạnh mẽ. Bà luôn có ý thức sâu sắc về việc “phải học bằng chồng” để có nhận thức, trình độ học vấn... bằng bạn đời của mình. Ngoài nuôi con và làm việc, bà học hết cấp 2, cấp 3, rồi học lên cao hơn nữa, trở thành một mậu dịch viên xuất sắc, một ĐBQH.
Theo tác giả Hoàng Nam Tiến, cách bà An Vinh phấn đấu “phải giỏi bằng chồng” có nhiều ý nghĩa với các bạn trẻ hiện đại. Nếu không cùng nhận thức, tầm nhìn, quan điểm sống và kinh nghiệm, sẽ không thể hiểu và đồng cảm cho nhau. Và hạnh phúc nhất, là trong hành trình học tập của bà An Vinh luôn có chồng ủng hộ. Đọc những dòng thư tướng Hoàng Đan gửi vợ: "Anh thích học và rất ham học nên anh cũng muốn người yêu anh như vậy, cái đó cũng không hại gì. Em tùy anh nhé. Việc học cũng khó nhưng học tập Paven chúng ta sẽ thấy rõ không khó khăn nào không vượt qua được. Paven mù hai mắt mà vẫn học hỏi được, không lẽ chúng ta lại không học được hay sao?" đủ để chúng ta hiểu chính sự động viên là động lực để họ cùng nhau trưởng thành và vượt khó.
Trong đời sống hôn nhân không thiếu đi những hờn ghen và giận dỗi. Xuyên suốt cuộc tình 50 năm, qua những chi tiết rất nhỏ, tác giả kể về cách tướng Hoàng Đan hết mực chiều vợ, động viên, lo lắng; cách bà An Vinh bao dung cho những đức tính rất đàn ông của chồng mình, vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng. Những câu chuyện tình yêu tưởng chỉ có hai người với nhau nhưng dưới ánh sáng của cách mạng, tác giả Hoàng Nam Tiến cho biết, khi đọc những bức thư, chính bản thân ông đã tìm thấy rất nhiều bài học từ tình yêu của ba mẹ. Đó là sự lắng nghe, thấu hiểu, là sự đồng hành sẻ chia, tình yêu là điểm tựa chắp cánh giúp ta hoàn thiện và vượt qua gian khó. “Tôi viết câu chuyện này để lại một kỷ niệm cho mình, cho gia đình và với cá nhân mình, tôi viết để hiểu thêm về tình yêu. Tôi mong độc giả, nhất là các bạn trẻ, tin rằng tình yêu có thật trong cuộc đời!” (Hoàng Nam Tiến).
Trong trí nhớ của tác giả, đối với các con, Thiếu tướng Hoàng Đan chưa bao giờ lên lớp hay giáo dục bằng sách vở, giáo điều. Tất cả đều là trải nghiệm thực tế. Tuổi thơ của anh là những lần theo ba lên đơn vị của ông. "Khi ba đi làm việc thì tôi ở với đại đội vệ binh hay đội xe... Tôi học nuôi gà, nuôi lợn, hay trồng ngô, trồng khoai, sắn... chính từ những mùa hè ấy", anh Hoàng Nam Tiến cho biết.
Thiếu tướng Hoàng Đan ít khi kể về những năm tháng chiến đấu trên khắp các chiến trường cho các con. Nhưng vào những dịp đặc biệt, ông thường dẫn cả nhà đi thăm lại chiến trường xưa. Một vị tướng lẫy lừng nơi trận mạc, một con người gắn với các chiến dịch quan trọng của dân tộc, nhưng đã phải rơi những giọt nước mắt nhớ thương đồng đội ở Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn. Chứng kiến những giây phút đầy cảm xúc ấy, tác giả Hoàng Nam Tiến thêm hiểu hơn những mất mát, đau thương cũng như ý nghĩa của hòa bình, độc lập, tự do với mỗi người...
Mỗi trang sách là mỗi tháng năm lịch sử của cả dân tộc, là tâm tư, tình cảm của mỗi người dân, là nỗi âu lo của người hậu phương, là niềm nhớ thương của người nơi chiến tuyến... Nhưng hơn hết, 300 trang sách đã để lại những dư vị thật ngọt ngào của tình yêu, của niềm vui chiến thắng, không chỉ của riêng ai mà là với nhiều thế hệ.
Bài và ảnh: Kiều Huyền
Nguồn Thanh Hóa : https://vhds.baothanhhoa.vn/nhung-la-thu-nbsp-con-lai-39124.htm