Chiến sỹ tiểu đoàn pháo binh mặt trận Hà Tuyên sẵn sàng chiến đấu. Ảnh: Minh Lộc/TTXVN
Lúc này, theo tiếng gọi thiêng liêng của Đảng, hàng vạn thanh niên đã xung phong lên đường, với khẩu hiệu “Tất cả vì Vị Xuyên thân yêu”. Trong khí thế hào hùng đó có cán bộ, giáo viên của Học viện Quân y cùng tham gia. Tháng 4-1987, tôi cùng hai đồng nghiệp được lệnh cấp trên đi thực tế vùng biên giới Vị Xuyên. Nhiệm vụ của chúng tôi là đến các trạm Quân y tiền phương để nắm bắt tình hình tư tưởng, công tác Đảng, công tác chính trị với mục đích gắn thực tiễn sinh động của chiến trường vào công tác giảng dạy ở nhà trường. Lúc này, ở biên giới phía Bắc tuy có giảm bớt căng thẳng so với các năm trước, song Mặt trận Thanh Thủy – Vị Xuyên được gọi là “Lò vôi thế kỷ” vẫn chưa hề hạ nhiệt.
Rạng sáng một ngày cuối tháng 4, thời tiết lúc bấy giờ đã cuối xuân, trời không còn lạnh. Ngồi trên xe, ba chúng tôi cùng ngân nga bài hát của nhạc sĩ Phạm Tuyên: “Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới, gọi toàn dân ta vào cuộc chiến đấu mới, quân xâm lược bành trướng dã man đã giày xéo mảnh đất tiền phương, lửa đã cháy và máu đã đổ trên khắp dải biên cương…”. Mải mê với bài hát, xe qua cầu Long Biên ra Quốc lộ 2 hướng về Phù Lỗ mà chúng tôi không biết. Lúc này trời vẫn còn tối, chưa có người đi lại, thỉnh thoảng có một vài chiếc xe thồ của người dân chở rau từ ngoại thành vào Hà Nội. Khoảng 12 giờ, chúng tôi đến thị xã Tuyên Quang, xe dừng lại khoảng 30 phút ăn trưa rồi lại tiếp tục lên đường. Ra khỏi Tuyên Quang, đường gồ ghề, khúc khuỷu. Đồng chí lái xe dường như đã được tôi luyện nhiều trong các chuyến dã ngoại nên tay lái rất vững vàng. Vật lộn với tuyến đường đèo dốc vất vả, khoảng 21 giờ chúng tôi cũng đã đến được “Hà Giang mến yêu của ta”.
Thị xã Hà Giang về đêm không một ánh đèn, không có người dân qua lại. Thỉnh thoảng bắt gặp một vài chiến sĩ đang tuần tra trên đường. Qua ánh đèn của chiếc ô tô, bất chợt chúng tôi nhìn thấy tấm pa-nô lớn bên vách núi có in dòng chữ: “Khu vực tuyến lửa”. Bỗng dưng tôi có cảm giác bồi hồi, khó tả…
Đến 22 giờ, xe chúng tôi đã đến được trạm khách của Quân khu II. Đón tiếp chúng tôi là hai chiến sĩ Kim Hoa và Thanh Thủy, trên cầu vai đeo quân hàm Trung sĩ, khuôn mặt còn “trẻ măng tơ”. Họ vui vẻ trêu đùa chúng tôi: “Chắc các thủ trưởng lần đầu ra trận à?”. Câu hỏi thật giản dị nhưng cũng là lời động viên chúng tôi quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Qua trò chuyện, chúng tôi biết được hai “chiến sĩ gái” đã ở trạm khách gần hai năm nay. Kim Hoa quê Tuyên Quang, còn Thanh Thủy quê Phú Thọ. Tháng 2 năm 1985, Hoa và Thủy nhập ngũ và huấn luyện tân binh ở Yên Bái, sau 3 tháng huấn luyện, họ được phân công về Trạm 44, Quân khu II ở Hà Giang. Thủy cho biết: “Khi mới được phân công lên tuyến lửa, chúng em cũng hốt lắm, nhưng mãi thành quen”. Từ khi lên Hà Giang, vì chiến sự ác liệt nên cả hai chưa một lần được về quê thăm nhà. Thủy nói nhiều khi nhớ bố mẹ và các em lắm nhưng vì nhiệm vụ đành gác lại… Nhưng được cái là trạm khách thỉnh thoảng gặp đồng hương nên cũng phần nào vơi đi nỗi nhớ. “Em mong hết chiến tranh để về thi vào sư phạm, làm cô giáo làng”. Còn Hoa lại muốn được làm điều dưỡng viên ở các bệnh viện… Tối hôm đó, chúng tôi được ngủ một giấc yên lành sau một ngày vất vả vượt quãng đường hơn 300 cây số.
Ở Trạm 44 được một ngày, khoảng 2 giờ sáng hôm sau, chúng tôi được lệnh lên mặt trận Vị Xuyên. Ngồi trên chiếc ô tô U-oát, đồng chí lái xe phải bật đèn gầm vì sợ địch phát hiện. Đi ra khỏi thị xã khoảng chục cây số, chúng tôi nghe tiếng rít của đạn pháo địch và những tiếng nổ chát chúa. Đồng chí lái xe thỉnh thoảng phải dừng lại nghe ngóng rồi lại đưa chúng tôi đi tiếp. Bỗng chốc, trước mắt chúng tôi, những ánh lửa lóe lên từ phía núi cao, cùng với đó là nhiều tiếng nổ dữ dội. Phía trước, mảnh đạn pháo và đất đá rơi chắn cả một phần lối đi. Tất cả chúng tôi vội vàng nhảy xuống xe, nằm úp mặt, lấy ba lô che đầu. Sau khi tiếng pháo ngớt, chúng tôi lại tiếp tục cuộc hành trình. Đấy là thử thách đầu tiên của tôi khi vào mặt trận. Có lẽ địch đã phát hiện được đèn xe của chúng tôi lúc leo dốc nên đã tập trung hỏa lực bắn dữ dội như vậy.
Gần sáng, chúng tôi đã đến được Làng Pinh, nơi Chỉ huy sở đóng quân. Nói là làng nhưng chẳng thấy làng đâu, chỉ có lán và công sự cheo leo hai bên vách núi. Tiếp chúng tôi là đồng chí Chuẩn, trợ lý Quân y của Sư đoàn 356 – Mặt trận Vị Xuyên. Sau vài câu giới thiệu, Trung úy Chuẩn nhận ra chúng tôi và nói: “Em cũng vừa mới đi học lớp nâng cao tại Phân hiệu Học viện Quân y ở Sài Gòn về mấy tháng nay” (Chuẩn là bác sĩ thực hành hệ cao đẳng Quân y nên sau hai năm về đơn vị phải đi bổ túc thêm). Chuẩn quê ở Phú Thọ, anh đã có vợ và một con gái, vợ là giáo viên của một xã miền núi trong tỉnh, đời sống kinh tế hai vợ chồng khá khó khăn. Chuẩn đã gắn bó với mặt trận Vị Xuyên gần 3 năm rồi.
Sau đó, Chủ nhiệm giới thiệu chúng tôi đến thực tế một số đơn vị Quân y của các Trung đoàn 149, 153, 876, 150… Địa điểm đầu tiên chúng tôi đến là Hang Dơi. Vì để phân tán, tránh bị địch phát hiện nên ba chúng tôi chia làm ba mũi đi cách nhau 15 phút. Tôi được đi mũi đầu tiên, người dẫn đường là chiến sĩ Trung, quê ở Hải Phòng. Trên đường đi, tôi được biết Trung tuổi mới đôi mươi, nhập ngũ đầu năm 1985 và đã gắn bó với mặt trận Vị Xuyên gần 2 năm. Trung tâm sự: “Mùa hè năm 1984, tốt nghiệp phổ thông em thi vào Đại học Y Hà Nội nhưng không đạt điểm chuẩn. Em định tiếp tục học lại để thi tiếp năm nữa, thực hiện ước mơ trở thành bác sĩ. Nhưng đầu năm 1985 em nhận được giấy gọi nhập ngũ. Sau mấy tháng huấn luyện tân binh, đơn vị của em được điều động tăng cường cho mặt trận Vị Xuyên và được biên chế vào đội tải thương. Em đành gác lại giấc mơ trở thành bác sĩ, tạm biệt thành phố hoa phượng đỏ, tạm biệt gia đình và người bạn gái học dưới em một lớp để ra trận”.
Khi chúng tôi bước xuống chiến hào, Trung dặn: “Thủ trưởng phải cúi người thấp xuống để địch không phát hiện được. Nếu bị phát hiện là chúng mình ăn no đạn pháo đấy”. Trung nói chưa dứt lời, từng loạt pháo cày lên mặt đất, mùi khói nồng nặc và khó thở. Trung động viên: “Ở đây chúng nó bắn thường xuyên, bọn em quen lắm rồi”. Ra khỏi Làng Pinh, chúng tôi đi qua Đỉnh Cốc Nghè – nơi diễn ra những cuộc tranh chấp ác liệt giữa ta và địch thời gian trước; lúc này tiếng pháo vẫn dội không ngớt. Phía dưới là thác Âm Phủ (chiến sĩ ta đặt tên địa danh này), do nơi đây từng có trận lũ lịch sử năm 1984 cuốn trôi nhiều chiến sĩ của ta. Qua Cửa Tử và một số địa danh ác liệt khác của mặt trận Vị Xuyên, chúng tôi luôn phải cúi người đi lom khom dọc theo chiến hào khúc khuỷu dưới những làn đại bác gầm rú của địch. Cuối cùng, chúng tôi cũng đến được Hang Dơi – nơi trạm Quân y của Trung đoàn bộ binh đang đóng quân.
Đêm đầu tiên chúng tôi ngủ ở Hang Dơi là đêm 30.4.1987. Lúc này cả nước ta đang tưng bừng kỷ niệm 17 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và kỷ niệm Ngày Quốc tế Lao động 1.5. Chúng tôi cùng với các chiến sĩ “áo trắng” nơi tuyến đầu cũng tổ chức ngày lễ lớn bằng cách riêng của mình. Chủ nhiệm Quân y Thắng tuyên bố: “Hôm nay vừa có các thầy từ Hà Nội lên, lại là ngày lễ lớn của dân tộc, tôi đặc cách cho phép anh nuôi được lấy một ít cồn y tế pha nước thay rượu để uống mừng”. Tất cả mọi người đều tán thưởng. Khi mâm tiệc gồm lương khô, thịt hộp và “rượu cồn” được mang ra, mọi người đang nâng chén chúc nhau thì bỗng phía ngoài hang vang lên tiếng đồng chí cảnh vệ: “Báo cáo các thủ trưởng, có thương binh về!”. Tất cả chúng tôi đều bỏ bữa để tập trung cứu chữa thương binh. Chủ nhiệm Quân y ra lệnh: “Đội phẫu chuẩn bị làm nhiệm vụ”, tất cả các y, bác sĩ vội vàng choàng áo và chuẩn bị dụng cụ phẫu thuật. Một chiến sĩ do bị thương quá nặng vào đầu đã hy sinh ngay sau đó, hai đồng chí bị thương nặng được xử lý kịp thời và chuyển về tuyến sau.
Xong xuôi mọi việc, tôi liếc nhìn đồng hồ đã gần 2 giờ sáng. Chúng tôi vừa lên giường chưa ấm chỗ thì lại tiếp tục có thương binh về, mọi người lại tất bật với công việc của mình. Đêm ấy, liên tục còn mấy đợt thương binh nữa… nên cả Hang Dơi gần như thức trắng đêm.
Hơn một tháng cùng ăn, cùng ở trong Hang Dơi, ba chúng tôi chứng kiến sự hy sinh, gian khổ, vất vả của các đồng chí y, bác sĩ làm việc trên tuyến đầu. Sự hy sinh thầm lặng mà không phải ai cũng biết. Khó khăn lớn nhất là phương tiện, y cụ thiếu thốn, trong khi thương bệnh binh từ tuyến trước chuyển về khá nhiều. Mặt khác, phía ngoài hang, ngày cũng như đêm không lúc nào ngớt tiếng pháo kích của địch. Nhiều quả pháo trúng ngay miệng hang, khói đen nồng nặc bay vào trong uy hiếp tính mạng cán bộ, chiến sĩ.
Rời Hang Dơi, chúng tôi chuyển sang các trạm phẫu thuật và các cơ sở Quân y khác ở Làng Lò cùng một số điểm khác ở Vị Xuyên. Lúc này, tôi vừa nghe tin chiến sĩ Trung – người dẫn đường cho tôi – đã hy sinh trong một lần đi tải thương, bị trúng pháo kích của địch. Tôi bàng hoàng không thể tin vào tai mình nữa. Suốt đêm đó, tôi không thể nào chợp mắt. Hình ảnh của Trung – người chiến sĩ tải thương hai mươi tuổi đời – mãi mãi yên nghỉ trong lòng đất mẹ Vị Xuyên. Ước mơ trở thành bác sĩ của em đã không thành, giấc mơ về Hà Nội ôm người yêu vào lòng để được yêu thương, nũng nịu… cũng không còn nữa. (Mãi đến năm 1997, tôi được biết người yêu của Trung sau khi tốt nghiệp đại học đã xung phong lên Hà Giang công tác, nơi Trung đã mãi mãi để lại tuổi thanh xuân).
Ở lại mặt trận Vị Xuyên thêm một thời gian nữa, đi đâu chúng tôi cũng được chứng kiến công việc vất vả, sự chịu đựng gan dạ, dũng cảm của các chiến sĩ Quân y nơi biên cương Tổ quốc. Điều mà chúng tôi nhận ra là tinh thần lạc quan, tin tưởng, yêu đời của các chiến sĩ – dù trực tiếp chiến đấu hay phục vụ chiến đấu – họ luôn tin tưởng nhân dân Việt Nam nhất định thắng lợi. Trong thời gian thực tế ở mặt trận Vị Xuyên, chúng tôi đã chứng kiến sự hy sinh, mất mát, sự yêu thương, đùm bọc, nhường cơm sẻ áo. Và hơn hết là tinh thần chiến đấu “vì độc lập, vì tự do”; “một tấc không đi, một ly không rời” của những người chiến sĩ nơi mặt trận Vị Xuyên.
Trước khi rời Vị Xuyên về lại Làng Pinh, chúng tôi thật xúc động khi biết tin trước đó ít ngày, Trung úy Chuẩn đã bị thương, mất một chân và được chuyển về tuyến sau điều trị. Thật xót xa, mới ngày nào khi chúng tôi đến đây, Chuẩn còn đón chúng tôi với đôi chân lành lặn… Tôi chợt nghĩ: chiến tranh quá khắc nghiệt, chỉ mấy tháng trời mà chúng tôi phải vĩnh biệt bao đồng đội, chứng kiến bao chiến sĩ phải để lại một phần cơ thể nơi tuyến đầu. Tôi chợt nhớ tới mấy câu thơ các chiến sĩ thường nói về tính chất ác liệt của Vị Xuyên: “Thác Âm Phủ chôn vùi bao tử sĩ, Đỉnh Cốc Nghè vùi lấp tuổi thanh xuân…”
Thấm thoắt đã gần bốn mươi năm trôi qua kể từ chuyến đi thực tế ấy. Bây giờ, mỗi lần nhắc đến Vị Xuyên, trong ký ức tôi lại ùa về kỷ niệm của những ngày tháng ác liệt đó. Giờ đây, trong cuộc sống thời bình, chúng ta không quên và không thể quên những chiến sĩ đã ngã xuống vì cuộc chiến tranh biên giới để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam thân yêu. Phải nói cho con cháu chúng ta biết được sự hy sinh, mất mát to lớn đó, để khơi dậy lòng tự hào truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc cho các thế hệ mai sau.
Cựu chiến binh Trần Anh Tuấn. Ảnh: NVCC
TRỞ LẠI VỊ XUYÊN
Trần Anh Tuấn
Tôi trở lại Vị Xuyên giữa một màu xanh,
Bồi hồi nhớ lại các chị, các anh.
Một thời oanh liệt sao quên được
Cửa Tử, Cốc Nghè đến Hang Dơi.
Lò vôi thế kỷ đạn pháo rơi,
Mặt đất tung lên cây tàn héo.
Chiến hào ngang dọc bị xới tung,
Làng Pinh, Làng Lò thành chiến lũy.
Máu bao người đã đổ trên biên cương.
Thác Âm Phủ ngày nào còn đó,
Bao linh hồn tử sĩ vấn vương.
Thế hệ hôm nay không được phép quên
Những người con đã hy sinh trên đất Mẹ,
Quyết giữ yên bờ cõi bốn ngàn năm.
Những ngày gian khổ chiến tranh
Luyện cho ta trở thành dũng sĩ,
Dạy cho ta những bài học quý:
Cảnh giác với quân thù, bảo vệ biên cương.
Nơi máu xương của bao đồng đội
Đổ xuống cho mùa màng tốt tươi.
Hôm nay trở lại Vị Xuyên ơi!
Gần bốn mươi năm, không còn bóng giặc,
Sự sống đâm chồi trên đất Mẹ quê hương.
Từ Làng Pinh đến núi cao Thanh Thủy,
Những bản làng nông thôn mới được dựng xây.
Tiếng trẻ vui đùa bên con chữ từng ngày,
Trường mới khang trang tiếng cười rộn rã.
Cuộc sống mới còn bao nhiêu vất vả,
Đồi chè nay đã trở lại màu xanh.
Trên đỉnh núi cheo leo có các chị, các anh
Đang hằng ngày vun xây cuộc sống,
Đưa những chuyến hàng đến với bản xa.
Ôi! Tự hào Tổ quốc chúng ta!
Mỗi người con đang hướng về biên giới,
Vị Xuyên vươn mình, hướng tới tương lai.
Tôi trở về trong nắng ấm ban mai,
Chiều biên cương núi rừng xanh lá.
Nơi các anh đã từng bám đá,
Giữ trọn biên cương Tổ quốc bình yên.
Nhớ đồng đội xưa trên mảnh đất Vị Xuyên…
Trần Anh Tuấn