Ảnh minh họa: TASS
Trên thực tế, sau gần 4 năm xung đột Nga - Ukraine bùng phát, tổn thất về con người và kinh tế quá lớn, buộc các bên phải sớm tìm kiếm lối thoát. Tuy nhiên, tiến trình thương lượng khó khăn khiến giới phân tích dự báo khả năng xung đột được giải quyết dứt điểm trong năm 2026 không mấy khả quan.
Có nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân đầu tiên và chủ yếu, là mục tiêu và lợi ích chiến lược của các bên rất khác biệt. Nga nhất quyết đòi Ukraine phải nhượng bộ lãnh thổ, cụ thể là công nhận quyền kiểm soát của Nga tại các khu vực Moskva đã giành được; trong khi Ukraine tuyên bố sẽ không chấp nhận bất kỳ thỏa thuận nào xâm phạm độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của mình. Khác biệt về vấn đề lãnh thổ là rào cản lớn nhất và được coi là khó khăn nhất trong bất kỳ cuộc đàm phán nào.
Thứ hai là thiếu tin cậy chiến lược, niềm tin giữa Nga và phương Tây đã bị phá vỡ hoàn toàn, khiến bất kỳ thỏa thuận đảm bảo an ninh nào cũng khó bền vững.
Thứ ba là sức ép chính trị nội bộ. Các nhà lãnh đạo của cả Nga và Ukraine đều phải đối diện với rủi ro chính trị nếu nhượng bộ quá nhiều trong vấn đề chủ quyền.
Cuối cùng, Nga và Ukraine đều tin rằng thời gian đang đứng về phía mình, nên chưa sẵn sàng nhượng bộ sớm. Nga hy vọng với nguồn nhân lực dồi dào và tiềm lực quốc phòng, họ có thể mài mòn dần sức kháng cự của Kiev. Ngược lại, Ukraine trông cậy vào viện trợ từ phương Tây và sự kiệt quệ dần của Moskva dưới sức ép cấm vận.
Trong khi đó, Mỹ và Liên minh châu Âu (EU) cũng bộc lộ dấu hiệu chia rẽ quan điểm về cách thức kết thúc chiến tranh. Trên thực tế, mâu thuẫn chính sách và sự khác biệt về chiến lược giữa Mỹ và EU đang làm suy yếu khả năng hợp tác của các lực lượng bên ngoài để thúc đẩy đàm phán hòa bình.
Sau khi trở lại Nhà Trắng đầu năm 2025, Tổng thống Mỹ Donald Trump nhận thấy việc tiếp tục hỗ trợ Ukraine vô thời hạn không còn phù hợp với lợi ích chiến lược dài hạn của Washington, và việc kéo dài xung đột lại cản trở mục tiêu then chốt là tập trung nguồn lực cho cuộc cạnh tranh chiến lược với Trung Quốc.
Giới phân tích nhận định chính sách của ông Trump trong việc thúc đẩy giải quyết cuộc xung đột Nga - Ukraine dựa trên lập trường "Nước Mỹ trước tiên", đó là buộc Ukraine phải nhượng bộ nhiều hơn về lợi ích khai thác tài nguyên; thúc ép châu Âu phải gánh vác trách nhiệm quốc phòng lớn hơn trong Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây dương (NATO) để giảm bớt gánh nặng tài chính của Mỹ; gây sức ép để Nga mở cửa thị trường trong nước cho các công ty Mỹ và nối lại các cuộc đàm phán giải trừ vũ khí hạt nhân.
Về phía EU, liên minh này coi Nga là "mối đe dọa trực tiếp đến an ninh châu Âu" và gắn việc hỗ trợ Ukraine với uy tín chính trị của EU, NATO. Đó là lý do EU luôn ủng hộ Ukraine và liên tục gia tăng trừng phạt Nga trong nhiều năm qua. Mặc dù vậy, theo thông tin của Viện Kinh tế thế giới Kiel (IfW Kiel), kể từ khi Mỹ chấm dứt hỗ trợ quân sự và tài chính cho Ukraine vào tháng 2/2025, châu Âu chỉ phân bổ khoảng 4,2 tỷ euro (4,92 tỷ USD) viện trợ mới, hoàn toàn không đủ bù đắp khoảng trống mà Mỹ để lại. Các nguồn viện trợ không phải từ Mỹ đã giảm từ mức đỉnh 23,44 tỷ USD trong ba tháng 4–6/2025 xuống chỉ còn 13,48 tỷ USD từ tháng 7–9/2025.
Trong bối cảnh hiện nay, việc Nga và Ukaine đạt được một thỏa thuận hòa bình toàn diện ít có khả năng xảy ra trong ngắn hạn, bởi hai bên khó có thể nhượng bộ trong những vấn đề cốt tử như lãnh thổ, bảo đảm an ninh cho Ukraine, cũng như dàn xếp được việc dỡ bỏ cấm vận với Nga. Trong trường hợp Mỹ gia tăng sức ép buộc hai bên xuống thang, có thể lại xuất hiện một lệnh ngừng bắn tạm thời. Tuy nhiên, đây không phải hướng giải quyết triệt để, và các thỏa thuận ngừng bắn luôn có nguy cơ bị phá vỡ.
Một kịch bản khác là chiến tranh tiếp diễn dai dẳng sang năm 2026 và có thể lâu hơn. Trong kịch bản này, tiền tuyến có thể đóng băng tương đối theo các tuyến phòng thủ kiên cố, còn hai bên tiếp tục xung đột ở cường độ thấp đến trung bình, đan xen những đợt tiến công cục bộ. Chiến tranh tiêu hao sẽ kéo dài cho tới khi một bên suy sụp dần về nguồn lực hoặc ý chí, hoặc khi cục diện địa chính trị quốc tế thay đổi lớn buộc các bên phải đi đến dàn xếp.
Kịch bản khả thi nhất sẽ là đình chiến có điều kiện; xung đột đóng băng dọc theo chiến tuyến hiện tại, cho phép các bên tập trung vào tái thiết và đối phó với những thách thức nội bộ. Hòa bình bền vững chỉ có thể đạt được sau một quá trình chuyển tiếp kéo dài.
Nhìn chung, ít khả năng cuộc xung đột Nga-Ukraine kết thúc sớm. Những động lực thúc đẩy hòa bình chưa đủ mạnh để xoay chuyển tính toán của Nga hoặc Ukraine, thậm chí cả Mỹ và EU. Ngược lại, nhiều rào cản lớn từ tham vọng chính trị, bất đồng mục tiêu, cho đến nghi kỵ lẫn nhau vẫn ngăn cản các nỗ lực hòa giải. Bởi trên thực tế, tiến trình hòa bình cho cuộc xung đột có thể đạt được tiến triển thực chất hay không, không chỉ phụ thuộc vào Nga và Ukraine, mà còn phụ thuộc vào những tính toán chiến lược của Mỹ và châu Âu.
Trong tiến trình thương lượng nhằm giải quyết cuộc xung đột, cả Nga, Ukraine, Mỹ và EU đều đang tìm cách tối đa hóa lợi ích của mình, xuất phát từ những tính toán thực dụng. Những nút thắt lợi ích như vậy khiến việc thúc đẩy giải pháp hòa bình lâu dài cho cuộc xung đột thêm khó khăn. Đó là lý do khiến tiến trình tìm kiếm giải pháp hòa bình cho xung đột Nga - Ukraine vốn sắp tròn 4 năm rơi vào cục diện bế tắc kéo dài.
Tuy nhiên, việc các cuộc thương lượng để thúc đẩy giải pháp hòa bình đang được xúc tiến cũng là dấu hiệu hy vọng. Nga, Ukraine, Mỹ và châu Âu đều nhận thức được rằng việc mắc kẹt vô thời hạn trong cuộc khủng hoảng Ukraine sẽ không có lợi cho lợi ích chiến lược và sự ổn định nội bộ của mình. Khi tổn thất của hai bên trên chiến trường liên tục tăng lên và cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ ở Mỹ năm 2026 đang đến gần, khả năng tiến trình đàm phán hòa bình được khởi động chỉ là chuyện sớm hay muộn. Không thể loại trừ khả năng, cánh cửa hòa bình có cơ hội mở ra năm 2026.
Trần Mạnh Hùng (TTXVN)