Những thành tựu đáng tự hào của giáo dục Việt Nam

Những thành tựu đáng tự hào của giáo dục Việt Nam
3 giờ trướcBài gốc
Dưới góc nhìn của một người gắn bó lâu năm với ngành giáo dục, TSKH. Phạm Đỗ Nhật Tiến đã nêu ra những thành tựu lớn của giáo dục Việt Nam trên cơ sở của các bằng chứng thuyết phục khiến thế giới phải kinh ngạc.
Thứ nhất, năm 1945, khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ mới được thành lập, có tới 95% dân số mù chữ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị ngay một chiến dịch quan trọng - chiến dịch “Diệt giặc dốt”, cùng với đó là phong trào “Bình dân học vụ”. Phong trào này đã ghi nhận những thành tựu ở mức độ "thần tốc", chỉ sau 5 - 7 năm, về cơ bản chúng ta đã xóa được nạn mù chữ ở tất cả vùng giải phóng.
“Chính vì thế tôi rất tán thành nhận định của Tổng Bí thư Tô Lâm về công cuộc bình dân học vụ này, đó là thành tựu tạo ra nền tảng đầu tiên và căn bản để cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”, TSKH. Phạm Đỗ Nhật Tiến nhận định.
TSKH. Phạm Đỗ Nhật Tiến chia sẻ tại tọa đàm "80 năm thành tựu giáo dục và dấu ấn lập pháp”. Ảnh: Xuân Quý
Thứ hai, năm 1991, Quốc hội ban hành Luật Phổ cập giáo dục tiểu học, trên cơ sở đó các cơ quan nhà nước đã ban hành các văn bản pháp quy về phổ cập giáo dục trung học cơ sở, phổ cập mầm non 5 tuổi. Chỉ sau một thời gian rất ngắn (đến năm 2000), Việt Nam hoàn thành cơ bản phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước. 10 năm sau (năm 2010), cả nước hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Thế giới đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đầu tiên hoàn thành sớm nhất các Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ trong lĩnh vực giáo dục.
Thứ ba, 80 năm vừa qua Việt Nam đã có một bước chuyển ấn tượng về chất lượng giáo dục, đặc biệt ở bậc giáo dục phổ thông. Qua các kỳ thi PISA, chất lượng giáo dục phổ thông của Việt Nam đã được thế giới công nhận một cách đầy kinh ngạc.
Việt Nam tham gia PISA lần đầu tiên năm 2012, ghi nhận kết quả vượt qua một loạt nước Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD). Năm 2015, 2018 và 2022, chúng ta tiếp tục ghi nhận kết quả ổn định. Trong khu vực, chất lượng giáo dục phổ thông của Việt Nam đứng thứ hai sau Singapore.
“Thế giới đánh giá Việt Nam là một ngoại lệ, khi chất lượng giáo dục phổ thông đi trước một bước so với trình độ phát triển của nền kinh tế. Thông thường hai yếu tố đó đi song song với nhau, kinh tế phát triển đến đâu thì giáo dục 'bước' đến đó”, TSKH. Phạm Đỗ Nhật Tiến tự hào chia sẻ.
Thứ tư, theo Khảo sát quốc tế về dạy và học (TALIS) được OECD công bố mới đây, Việt Nam thuộc nhóm các nước hàng đầu có tỷ lệ giáo viên cao nhất trên thế giới hoàn thành các chuẩn đầu ra trong hoạt động nghề nghiệp (72%), trong khi các nước OECD ghi nhận tỷ lệ trung bình là 44% - 56%. Tỷ lệ này cho thấy vị thế đặc biệt của giáo viên Việt Nam nhìn từ chất lượng trên phạm vi quốc tế.
Thứ năm, Việt Nam đã xây dựng và hình thành, hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất trong toàn quốc. Theo đó, Việt Nam có hệ thống trường lớp trải rộng trên phạm vi cả nước, tới vùng sâu, vùng xa. Cơ cấu giáo dục bảo đảm đáp ứng mọi nhu cầu học tập của người dân, mọi yêu cầu về phát triển nguồn nhân lực, mọi trình độ đào tạo.
“Nếu nhìn từ trình độ của năm 1945, sau 80 năm chúng ta đã thành công ở chỗ hệ thống giáo dục có thể sánh ngang với hệ thống giáo dục của các nước tiên tiến trên thế giới”, chuyên gia giáo dục Phạm Đỗ Nhật Tiến nhấn mạnh.
Một trong những thành tựu lớn của giáo dục Việt Nam là xây dựng được hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất trong toàn quốc
Thứ sáu, ngành giáo dục Việt Nam ghi nhận sự hình thành và phát triển của hệ thống giáo dục các trường ngoài công lập. Đến nay, Việt Nam có hệ thống trường ngoài công lập có chất lượng, có thể cạnh tranh với các trường công lập có chất lượng cao, đáp ứng cơ hội được chọn trường của học sinh, sinh viên. Ở cấp đại học, nhiều trường nằm trong danh sách xếp hạng các trường đại học uy tín trên thế giới.
Thứ bảy, Việt Nam ghi nhận thành tựu rất lớn trong xây dựng xã hội học tập, khiến thế giới kinh ngạc, với cách tiếp cận rất riêng. Trong khi thế giới xây dựng xã hội học tập từ các thành phố học tập, từ những nơi có điều kiện học tập tốt nhất; Việt Nam xây dựng xã hội học tập từ cơ sở, từ làng xã. Nhờ định hướng đó, Việt Nam đã hình thành mạng lưới gia đình học tập, dòng họ học tập, trung tâm học tập, xã phường học tập và các đơn vị học tập,… tạo thành hệ sinh thái cung cấp giáo dục suốt đời cho mọi người dân ở mọi trình độ.
Thứ tám, gần đây nhất Việt Nam ghi nhận thành tựu mới trong chuyển đổi số giáo dục. Giai đoạn đại dịch Covid-19, chuyển đổi số đã bảo đảm giáo dục không đứt quãng trong bối cảnh các nhà trường phải đóng cửa. Từ đó, ghi nhận những bước tiến quan trọng trong phổ cập kỹ năng số toàn xã hội.
Gần đây, sau lời kêu gọi của Tổng Bí thư Tô Lâm, Việt Nam đã hình thành phong trào “Bình dân học vụ số” với một loạt tổ công nghệ số cộng đồng ở tất cả địa phương, đi từng ngõ, gõ từng nhà, dạy từng người, bảo đảm mọi người dân có thể tiếp cận công nghệ số một cách dễ dàng.
“Nếu như cách đây 80 năm, phong trào Bình dân học vụ đã tạo ra nền tảng đầu tiên và căn bản để cách mạng Việt Nam đi đến những bước thắng lợi, thì hiện nay, phong trào “Bình dân học vụ số” thắng lợi sẽ tạo ra nền tảng căn bản để chúng ta có những bước đột phá trong phát triển giáo dục ở kỷ nguyên mới”, TSKH. Phạm Đỗ Nhật Tiến nói.
Theo báo cáo "Quản trị ở các nước Đông Nam Á" do OECD công bố, Việt Nam là nước có tỷ lệ dân số hài lòng với giáo dục cao nhất thế giới với 96% người dân bày tỏ sự hài lòng. Trong đó, con số trung bình được ghi nhận từ các nước OECD là 66%, các nước Đông Nam Á là 89%.
“96% người dân Việt Nam thể hiện sự hài lòng với giáo dục, đây là một con số cực kỳ lớn! Điều đó chứng minh rằng, thành tựu giáo dục trong hành trình 80 năm vừa qua đáng tự hào”, TSKH. Phạm Đỗ Nhật Tiến khẳng định.
Chi Nguyễn
Nguồn Đại Biểu Nhân Dân : https://daibieunhandan.vn/nhung-thanh-tuu-dang-tu-hao-cua-giao-duc-viet-nam-10401676.html