Những ưu tiên chiến lược cho Việt Nam trong 20 năm tới

Những ưu tiên chiến lược cho Việt Nam trong 20 năm tới
5 giờ trướcBài gốc
Bước tiến lớn qua gần bốn thập kỷ
PV: Sau gần 40 năm Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; đã chuyển đổi nhanh từ một trong những nước nghèo nhất thế giới trở thành nước thu nhập trung bình và chuẩn bị bước vào nhóm thu nhập trung bình cao. Những thành tích này không phải quốc gia nào cũng đạt được, các ông đánh giá như thế nào về những bước tiến lớn mà Việt Nam đã đạt được gần bốn thập kỷ, thay đổi nào của Việt Nam đáng chú ý nhất?
GS. TS. Hoàng Văn Cường - Đại biểu Quốc hội khóa XV
GS. TS. Hoàng Văn Cường
Thành tựu sau 40 năm được đánh giá rõ nét nhất là Việt Nam đã chuyển mình từ một nước nghèo nhất thế giới, không chỉ có thu nhập thấp và Chính phủ thường xuyên phải đi xin viện trợ lương thực, khó khăn bủa vây tứ bề, đến nay chúng ta đã trở thành một nước xuất khẩu về lương thực đứng nhất nhì thế giới - một sự đảo chiều ấn tượng.
Điểm nữa nhìn thấy rất rõ là, trước khi Đổi mới chúng ta khan hiếm về hàng hóa, dịch vụ, điển hình như chế độ phân phối hàng hóa từ cái kim cuộn chỉ thì đến nay Việt Nam đã trở thành một nước xuất khẩu hàng hóa tiêu dùng có thứ hạng trên thế giới và thương hiệu của hàng hóa Việt Nam được người tiêu dùng ưa chuộng.
Cùng đó, chỉ số phát triển về con người Việt Nam năm 2023 đạt 0,766, xếp trong nhóm các quốc gia có mức phát triển con người cao, đứng thứ 93 trên tổng số 193 quốc gia và vùng lãnh thổ, tăng mạnh 14 bậc so với năm 2022. Điều này thể hiện rất rõ thành tựu về phát triển toàn diện và hình ảnh của Việt Nam trên thị trường thế giới hiện nay đã đổi khác hoàn toàn. Nếu trước đây thế giới biết đến Việt Nam qua chiến thắng Điện Biên Phủ, chiến dịch Hồ Chí Minh thống nhất đất nước..., thì nay bạn bè quốc tế đã nhắc đến Việt Nam là điểm đến đầu tư tiềm năng và triển vọng.
Để có được thành công đó, chúng ta đã quyết tâm thay đổi từ thể chế kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây chính là mấu chốt, trong đó chúng ta luôn vận dụng, tận dụng những công cụ thế mạnh của thị trường, nhưng đồng thời có sự điều hành hữu hiệu của Nhà nước vừa khai thác được tất cả những thế mạnh nhưng đồng thời cũng khắc phục được những điểm yếu, lỗ hổng của thị trường. Chính điều đó giúp cho chúng ta có một nền kinh tế phát triển ổn định, điển hình như trong bối cảnh thế giới nhiều biến động, kinh tế vĩ mô của Việt Nam luôn được điều hành một cách nhịp nhàng và ổn định, thể hiện vai trò quản lý của Nhà nước.
TS. Lê Xuân Sang
Những thành tựu nổi bật nhất mà nền kinh tế Việt Nam đã đạt được sau bốn thập niên đổi mới, trước hết chính là mức tăng trưởng kinh tế tương đối là cao, kéo dài, xấp xỉ khoảng 7% trong thời gian dài mà không lúc nào bị sa vào suy thoái kinh tế, không mất ổn định vĩ mô kéo dài. Thành tựu này dẫn đến những thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội khác, nhất là về phát triển con người và ổn định chính trị, tạo được lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài cũng như lòng tin của giới đầu tư và người dân Việt Nam. Tôi cho rằng, thành tựu tăng trưởng, xóa đói giảm nghèo cùng với việc hoàn thành sớm các Mục tiêu Thiên niên kỷ là những kết quả rất ấn tượng của Việt Nam.
Trong các yếu tố góp phần lớn cho những thành công này, thì yếu tố quan trọng đầu tiên là Việt Nam đã mạnh dạn đổi mới, chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường, đặc biệt là đã tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là trong những lĩnh vực có liên quan đến thu hút FDI và tham gia vào nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA), đặc biệt là những FTA thế hệ mới đã được ký kết thời gian vừa qua.
Việc chủ động đổi mới, chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam sang nền kinh tế thị trường, nhất là trong lĩnh vực hội nhập còn có sự góp sức của việc thúc đẩy phát triển khu vực doanh nghiệp theo hướng ngày càng cho phép nhiều hơn khu vực kinh tế tư nhân tham gia vào các cái hoạt động kinh tế, đồng thời ngày càng giảm bớt những đặc quyền, đặc lợi, ưu đãi đối với khu vực doanh nghiệp nhà nước.
Riêng đối với lĩnh vực tài chính, Việt Nam đã có một lộ trình đổi mới, hội nhập hệ thống tài chính Việt Nam vào hệ thống tài chính khu vực và toàn cầu, tuy chậm nhưng tương đối chắc. Từ đó, đã góp phần vào những thành công trong tăng trưởng kinh tế, ổn định vĩ mô, đặc biệt là ổn định lạm phát và giúp duy trì tương đối tốt tính bền vững của ngân sách nhà nước. Và như tôi đã nói, cũng chính nhờ chính sách tài chính - ngân sách của đã giúp Việt Nam phát triển con người tương đối tốt (nhanh và cao hơn so với các nước có mức thu nhập tương đương Việt Nam), nhất là trong xóa đói giảm nghèo. Trên thế giới, có ít nước thực hiện được việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao, đi liền với xóa đói giảm nghèo, ổn định vĩ mô như Việt Nam trong bốn thập niên gần đây.
Bối cảnh mới, cơ hội và thách tức đan xen
PV: Trong bối cảnh thế giới thay đổi nhanh chóng, nước ta đang đứng trước cả cơ hội phát triển mới và những thách thức lớn. Để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, đạt mục tiêu đến năm 2045 trở thành "nước phát triển, thu nhập cao", đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện thành công những cải cách lớn, các chuyển đổi lớn như chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi xã hội… để tận dụng cơ hội, hạn chế thách thức từ bối cảnh mới, theo các ông, Việt Nam cần phải thay đổi như thế nào để đảm bảo đạt được những mục tiêu tăng trưởng đã đặt ra?
GS. TS. Hoàng Văn Cường
Để tiếp tục phát triển đất nước, trong bối cảnh hiện nay, cơ hội lớn nhất chính là cuộc cách mạng 4.0. Quá trình chuyển đổi đó sẽ đưa tất cả các nước trở về cùng một vạch xuất phát và đây chính là cơ hội để những nước nắm bắt nhanh những thành tựu của cách mạng 4.0 cũng như xu thế chuyển đổi số trở thành nước phát triển..
Trong cuộc cách mạng này, những nước chưa quá phát triển trong lĩnh vực công nghiệp đang có lợi thế để có thể đi nhanh hơn trong quá trình chuyển đổi số, do không bị ràng buộc bởi các quy trình công nghệ đã trở thành nền tảng. Đối với Việt Nam, chúng ta có lợi thế riêng trong chuyển đổi số và phát triển trí tuệ. Bởi lẽ nguồn nhân lực của Việt Nam là nguồn nhân lực có năng khiếu về trí tuệ trong các lĩnh vực như toán, thể hiện ở việc người Việt Nam luôn đạt được những giải thưởng quốc tế, học sinh Việt Nam đi ra quốc tế học cũng luôn dẫn đầu trong các lĩnh vực khoa học. Đây là tiềm năng và lợi thế để Việt Nam phát triển trí tuệ nhân tạo. Chính vì vậy, nhiều tập đoàn và tổ chức thế giới về phát triển trí tuệ nhân tạo đều quan tâm đến Việt Nam, hứa hẹn đưa Việt Nam trở thành nơi ươm mầm cho sự phát triển các tập đoàn, các tổ chức nghiên cứu về trí tuệ nhân tạo.
Cạnh đó, Việt Nam còn có tiềm năng về phát triển xanh như rừng, nông nghiệp, khí hậu, đặc biệt là tiềm năng về phát triển các nguồn năng lượng mới thay thế các nguồn năng lượng hóa thạch. Đây sẽ là một lợi thế cho việc chuyển đổi năng lượng sạch năng lượng sạch.
Cùng những lợi thế trên, có một điểm sáng nữa là con người Việt Nam rất nhanh, dễ thích ứng với những cái mới, có trí tuệ. Chưa kể, con người Việt Nam có tính đồng thuận, tuân thủ cao, điển hình có thể thấy ở việc Việt Nam đồng lòng vượt qua đại dịch Covid-19 mà thế giới phải nhắc đến.
Đặc biệt, hiện nay chúng ta đang có một sự đoàn kết, ổn định về mặt chính trị. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đã xây dựng được một thể chế chính trị thuộc nhóm ổn định trên thế giới. Đây là những lợi thế để Việt Nam có thể đi nhanh, đi đầu trong công cuộc vươn lên trở thành một thành viên năng động và có ảnh hưởng trên thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, chúng ta cũng phải nhận diện rõ những khó khăn, thách thức. Đó là tác động của sự bất định thế giới trong lĩnh vực kinh tế như các cuộc chiến thương mại và những bất định khác gây ra bất ổn của thị trường. Trong khi Việt Nam đang là một nước có độ mở cao, đang trong quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng nên rất dễ bị tác động của những sự bất định. Điều này đặt ra cho chúng ta cần duy trì phương châm đối ngoại là đa dạng hóa đa phương hóa, đa dạng hóa trong tất cả lĩnh vực về chính trị, ngoại giao, đặc biệt là thị trường để không bị lệ thuộc vào sự biến động. Đồng thời cũng đặt ra cho Việt Nam yêu cầu là phát triển nền kinh tế hội nhập nhưng song hành phải có tính độc lập, tự chủ, bởi lẽ chúng ta đang có tiềm lực rất lớn để tạo ra một nền kinh tế độc lập tự chủ dựa vào thị trường, nguồn lực và con người. Để thực hiện cuộc cách mạng này Việt Nam cần phải có bước nhảy vọt, vượt qua được bẫy thu nhập trung bình trở thành thu nhập cao. Theo định hướng này, chúng ta phải đẩy mạnh khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đồng thời chúng ta phải tái cấu trúc nền kinh tế, xác định những trụ cột riêng, không bị lệ thuộc vào các nhà đầu tư nước ngoài, đồng nghĩa với việc phải tái cấu trúc hoạt động của các doanh nghiệp, người lao động phải tham gia vào những khâu có giá trị cao. Tiếp theo đó, chúng ta phải khai thác tối đa nội lực, có thể nói đến ngay là tiềm năng về đất đai, tài nguyên, lợi thế về vị trí địa lý, về quan hệ trong khu vực, đặc biệt là phát huy nội lực của nhân lực và trí tuệ con người.
TS. Lê Xuân Sang
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, chuyển đổi số và các vấn đề như biến đổi khí hậu hiện nay đang đặt ra nhiều thách thức mới cho Việt Nam. Trước hết, để vượt qua những thách thức, phải chú trọng nâng cao năng lực, chất lượng của nguồn nhân lực. Chất lượng nhân lực phải làm sao để đủ cao, đủ đa dạng để có thể nắm bắt được những cơ hội từ toàn cầu hóa, chuyển đổi số và biến đổi khí hậu, đồng thời giảm thiểu tối đa những hệ lụy, những mặt tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa, chuyển đổi số. Thứ hai là vấn đề hoạch định chính sách cũng như huy động các nguồn lực, đây cũng là vấn đề tương đối khó. Cùng với chất lượng nguồn nhân lực như đã nói, cần chuyển đổi hệ thống thể chế, bộ máy nhà nước để nắm bắt, hóa giải được những tác động, đặc biệt là tác động tiêu cực từ toàn cầu hóa, chuyển đổi số và biến đổi khí hậu, trong bối cảnh chúng ta đặt ra mục tiêu rất lớn là tăng trưởng kinh tế đạt 8% trong năm 2025 và tăng trưởng hai con số trong thời gian đến năm 2030.
Sở dĩ khó là vì chúng ta phải thực hiện đồng thời nhiều mục tiêu, nhất là mục tiêu tăng trưởng hai con số trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam chịu rất nhiều tác động có cả tích cực và tiêu cực. Cùng với mục tiêu tăng trưởng cao, kéo dài, nhưng vẫn bảo đảm được ổn định vĩ mô, ổn định xã hội, ổn định chính trị và duy trì được những kết quả về phát triển con người, phát triển xã hội đã đạt được trong thời gian qua và thậm chí, nếu theo mục tiêu đặt ra thì phải cao hơn so với trước.
Tôi cho rằng, đây là thách thức rất lớn đặt ra cho Việt Nam trong bối cảnh thách thức nhiều hơn, đòi hỏi chất lượng cao hơn, trong khi nền kinh tế thế giới và khu vực đối diện với nhiều cái “bất” hơn, còn gọi là “tứ bất”: bất định, bất trắc, bất an và bất đồng.
TS. Lê Xuân Sang - Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam
Những chuyển đổi lớn cho mục tiêu 2045
PV: Trong 20 năm tới, Việt Nam đặt trọng tâm vào 3 mục tiêu chiến lược chính: trở thành nước phát triển thu nhập trung bình cao đến năm 2030, phát triển thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển thu nhập cao đến năm 2045, và giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế. Để đạt được điều này, Việt Nam sẽ tập trung vào tăng trưởng kinh tế bền vững, đổi mới công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo vệ môi trường. Xin các ông bình luận về nội dung này?
GS. TS. Hoàng Văn Cường
Để trở thành một nước phát triển, việc đầu tiên là phải thoát được bẫy thu nhập bình, phải có được sự tăng trưởng đột phá. Một trong những điểm để tăng trưởng đột phá là khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Chúng ta phải phát triển để đặt chân vào những lĩnh vực mới với những phân đoạn mới, khi đó chúng ta mới phát huy được năng lực, trí tuệ của người lao động. Để khai thác tối đa tiềm lực con người, đương nhiên là phải dựa vào nền tảng giáo dục đào tạo và y tế. Vì vậy, phải tiếp nối quan điểm chủ đạo của Đảng là coi giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, đồng thời trong bối cảnh mới thì phải có những chính sách, giải pháp mới để tạo ra những đột phá về giáo dục và đào tạo, từ đó phát triển nguồn nhân lực.
Khi tạo được nguồn nhân lực tốt, chúng ta mới có thể tạo ra những lĩnh vực của riêng mình, góp phần đạt được mục tiêu vừa là nền kinh tế hội nhập đồng thời cũng sẽ tạo ra được những lĩnh vực tự chủ độc lập.
Vừa qua Bộ Chính trị có Nghị quyết số 68, Quốc hội có Nghị quyết 198 về phát triển kinh tế tư nhân với mục tiêu không chỉ thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân nói chung mà là trợ lực giúp các tập đoàn doanh nghiệp trong nước vươn lên trở thành người chủ giữ vai trò trụ cột trong phát triển các ngành, lĩnh vực của đất nước.
Theo đó, muốn trở thành trụ cột, một mặt là phải mở rộng cơ hội thị trường, mở rộng điều kiện để các tập đoàn doanh nghiệp phát triển, ví dụ như khu vực đầu tư công, đồng thời phải có bàn tay của Nhà nước trong việc dẫn dắt, định hướng. Cùng với đó là nâng cao năng suất lao động của người Việt Nam theo hướng tăng hiệu năng công việc, cần làm thế nào để đặt lực lượng lao động vào khu vực công việc mới có giá trị lao động cao. Do đó, phải nâng cao trình độ của người lao động, trở thành nguồn nhân lực có năng lực sáng tạo, tạo ra những hoạt động kinh doanh mới, tự mình làm chủ. Cùng với khuyến khích khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; tăng cường giáo dục đào tạo, nâng cao trình độ thể chất trí tuệ, kỹ năng lao động, cần phải có bàn tay Nhà nước thông qua các chính sách như khuyến khích ứng dụng chuyển giao khoa học công nghệ đổi mới sáng tạo thử nghiệm, cho phép phát triển các lĩnh vực mới, trong đó điển hình như các chính sách thí nghiệm có kiểm soát nguồn lực hỗ trợ (như các quỹ đầu tư mạo hiểm hỗ trợ trong việc đầu tư nghiên cứu, phát triển nghiên cứu khoa học công nghệ để người nghiên cứu, những nhà khoa học yên tâm nghiên cứu, sáng tạo mà không bị giới hạn bởi việc đánh giá kết quả thì mới có thể tạo ra được những thành tựu, thành công mới, từ đó ứng dụng trong thực tiễn tạo đột phá phát triển.
TS. Lê Xuân Sang
Để đạt được mục tiêu trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045, theo tôi ưu tiên đầu tiên vẫn là yếu tố phát triển nguồn nhân lực và phát triển được hệ thống quản trị nhà nước thực sự hiệu quả, thực sự mang tính kiến tạo phát triển trong một thế giới đầy biến động, nhiều bất trắc. Vì, khi có chất lượng nguồn nhân lực cũng như chất lượng đội ngũ công chức tốt thì việc huy động các nguồn lực, nhất là nguồn lực từ bên ngoài, nguồn lực trong nước để ứng phó với những biến động là có thể làm được. Tất nhiên, ngoài vấn đề chất lượng nguồn nhân lực, một khía cạnh có liên quan là làm sao để nâng cao nhanh được kỹ năng, trình độ nguồn nhân lực trong việc phát triển công nghệ cao, công nghệ giúp xây dựng được nền kinh tế có tính tự chủ cao và đặc biệt là không bị tụt hậu xa hơn trong cuộc đua ngày càng khốc liệt giữa các quốc gia, giữa các khu vực trong việc tạo ra được thế cạnh tranh lớn hơn, thu nhập cao hơn, vị thế cao hơn. Nhưng, cũng phải nói rằng, để đạt được những điều này không hề dễ chút nào, nhất là về công nghệ. Nước ta là nước từ lâu đã lạc hậu trên phương diện trình độ khoa học công nghệ, bây giờ một lúc phải làm nhiều việc và đồng thời làm sao nâng cao được cái trình độ công nghệ.
Bài học từ việc mong đợi quá mức đối với nguồn công nghệ từ FDI cho thấy rất là rõ là chúng ta vẫn chưa có những chiến lược phù hợp, chủ quan duy ý chí, hoặc không đủ sức mạnh mặc cả để yếu cầu chuyển giao công nghệ. Lý do là nhân lực yếu kém, khiến khả năng hấp thu công nghệ kém. Để nâng cao trình độ, chất lượng nguồn nhân lực qua đó phát triển được những công nghệ đổi mới, sáng tạo mang tính nội sinh đòi hỏi phải xây dựng, hoàn thiện một hệ sinh thái thuận lợi cho việc thúc đẩy công nghệ và phải cạnh tranh được, thu hút được những yếu tố tích cực từ bên ngoài trong một thế giới, một khu vực đầy cạnh tranh. Đây là những vấn đề rất quan trọng, mặc dù triển khai không dễ, nhất là tính bất định, bất trắc, bất ổn vẫn rất cao, không như trước. Từ khi đại dịch Covid-19 xảy ra đến nay, chúng ta thấy sự bất trắc, sự biến đổi diễn ra quá nhanh ngoài dự kiến, kể cả về số lượng cú sốc cũng như tốc độ thay đổi.
Bên cạnh đó, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hai con số trong thời gian tới và Việt Nam có thế tận dụng tốt hơn các cơ hội từ công nghệ, đổi mới sáng tạo và hội nhập kinh tế quốc tế… thì động lực mang tính khả thi nhất vẫn là hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông. Dù vậy, việc xây dựng nhanh hệ thống kết cấu hạ tầng có thể gây rui ro về lạm phát và tăng nợ công. Để giải bài toán này, thời gian vừa qua Đảng, Chính phủ đã có những đại cải cách có liên quan đến khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, cải cách hành chính, tôi cho rằng động lực này cũng sẽ tạo ra được những chuyển biến mới cho phát triển khoa học công nghệ cũng như năng lực của bộ máy.
Đối với vấn đề cải cách bộ máy hành chính, cải cách thể chế khoa học công nghệ, thể chế hội nhập, ngoài việc đề ra các nhóm giải pháp, phải có sự đánh giá, điều chỉnh và nên xây dựng một lộ trình cải cách, đổi mới, thay đổi thể chế rõ ràng hơn, minh bạch hơn, mang tính tiên liệu để bảo đảm tính thực thi cao và hiệu quả, tạo được sự đồng lòng từ trên xuống dưới, từ các tầng lớp của xã hội. Điều này sẽ mang lại kết quả tích cực hơn vì tạo được thế chủ động của các tầng lớp trong xã hội, thấy được lộ trình và sự tiên liệu, qua đó tự đánh giá hành vi, đánh giá hệ thống động lực để để tự thay đổi, qua đó làm việc tốt hơn, cống hiến có hiệu quả hơn. Đây là những thách thức cần hết sức lưu ý. Kinh nghiệm quốc tế trong cải cách kinh tế ở các nước ASEAN hay kinh nghiệm của Liên Xô trước đây cũng như kinh nghiệm một số nước cho thấy, việc cải cách nền kinh tế trong các lĩnh vực khác nhau, nếu thiếu những lộ trình phù hợp và thậm chí là quá nhanh thì rủi ro lãng phí, bất ổn, thậm chí là khủng hoảng, nhất là trong lĩnh vực tài chính là tương đối cao. Do đó, chúng ta cần hết sức lưu ý để các chính sách kinh tế nói chung và chính sách tài chính nói riêng trở thành đòn bẩy giúp Việt Nam phát triển bền vững.
Thời điểm vàng để Việt Nam trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045
Phóng viên (PV): Thưa bà, sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Bà đánh giá thế nào về những bước tiến lớn mà Việt Nam đã đạt được gần bốn thập kỷ qua? Theo bà, đâu là thay đổi đáng chú ý nhất của Việt Nam trong thời gian qua?
Kể từ khi khởi xướng công cuộc Đổi mới năm 1986, Việt Nam đã chuyển mình ấn tượng từ một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới trở thành một nền kinh tế năng động, phát triển và thuộc nhóm các quốc gia có thu nhập trung bình. Nếu như cuối những năm 1980, hơn một nửa dân số sống trong cảnh nghèo cùng cực, thì hiện nay con số này đã giảm xuống dưới 1%. Ngày nay, thu nhập bình quân đầu người thực cao gấp sáu lần so với bốn thập kỷ trước, khi Đổi mới bắt đầu. Việt Nam đứng đầu các quốc gia có thu nhập trung bình thấp về Chỉ số Vốn con người của Ngân hàng Thế giới, và số năm đi học điều chỉnh theo chất lượng học tập - một thước đo cả về lượng và chất đầu tư vào vốn con người - đạt trung bình 10,2 năm, chỉ xếp sau Singapore trong ASEAN.
Sự thay đổi nổi bật nhất kể từ Đổi mới là bước chuyển mạnh mẽ của Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường năng động, mở cửa. Quá trình này bao gồm các cải cách lớn về sử dụng đất, quy định kinh doanh, thương mại và đầu tư, giáo dục và hạ tầng.
Những thay đổi về chính sách và thể chế này đã giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng vào chuỗi giá trị toàn cầu, đặc biệt trong các lĩnh vực điện tử, dệt may và da giày. Hiện Việt Nam là nước xuất khẩu bán dẫn lớn thứ 10 thế giới, với kim ngạch trên 22 tỷ USD. Tỷ lệ thương mại trên GDP của Việt Nam năm 2023 vượt 160%, so với mức trung bình dưới 60% của khu vực Đông Á - Thái Bình Dương.
Những chuyển đổi này đã mở ra cơ hội cho hàng triệu người gia nhập lực lượng lao động chính thức và nâng cao mức sống trên cả nước. Hiện lực lượng lao động của Việt Nam vào khoảng 57 triệu người, với hơn 20 triệu việc làm mới được tạo ra kể từ Đổi mới. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động hiện vượt 80%, cao hơn mức trung bình của các nước đang phát triển trong khu vực. Theo số liệu của Cục Thống kê, 82% lực lượng lao động hiện làm việc trong khu vực tư nhân. Việc làm đã giúp sức mua của người dân tăng lên gấp năm lần so với 30 năm trước, thuộc nhóm cao nhất trong các quốc gia thu nhập trung bình thấp.
Ngân hàng Thế giới tự hào là đối tác tin cậy đồng hành cùng Việt Nam trong suốt chặng đường này—từ tư vấn các cải cách nền tảng đầu tiên của Đổi mới đến cung cấp gần 26 tỷ USD tài trợ cho các lĩnh vực trọng yếu. Bên cạnh đó, Ngân hàng Thế giới cũng đã hợp tác với Việt Nam thực hiện nhiều nghiên cứu phân tích đa dạng để hỗ trợ cải cách trong hơn 30 năm qua.
PV: Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2030 trở thành nước phát triển thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 phát triển thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển thu nhập cao; giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế. Theo bà, đâu là những ưu tiên chiến lược Việt Nam cần thực hiện trong 20 năm tới trong bối cảnh thế giới thay đổi nhanh chóng và Việt Nam đang đứng trước cả cơ hội phát triển mới và cả những thách thức lớn?
Việt Nam đang ở thời điểm then chốt, với khát vọng mạnh mẽ trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045. Để đạt được mục tiêu này, Việt Nam cần tăng tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người từ mức trung bình 5,1% lên 6,0% trong hai thập kỷ tới. Để hiện thực hóa tầm nhìn này, Việt Nam cần đẩy mạnh cải cách để duy trì động lực khu vực tư nhân. Các cải cách trước đây đã thúc đẩy đầu tư và chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ có năng suất cao hơn. Thách thức hiện nay, cũng là khó khăn chung của các nước có thu nhập trung bình, là làm thế nào sử dụng nguồn lao động và vốn một cách hiệu quả hơn để thúc đẩy tăng trưởng nhanh hơn. Giai đoạn phát triển tiếp theo của Việt Nam cần được thúc đẩy bởi những động lực kinh tế mới như nâng cao năng suất, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi xanh và chuyển đổi số toàn diện, với vai trò dẫn dắt của khu vực tư nhân năng động.
Phân tích của Ngân hàng Thế giới chỉ ra năm ưu tiên chính sách cho giai đoạn phát triển tiếp theo:
Thứ nhất, thúc đẩy phát triển khu vực tư nhân là yếu tố then chốt để nâng cao năng suất, thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, đổi mới sáng tạo và tăng sức cạnh tranh của quốc gia.
Thứ hai, cải cách giáo dục đại học rất cần thiết để nâng cao kỹ năng cho người lao động, từ đó góp phần tăng năng suất lao động.
Thứ ba, bên cạnh việc chuyển hướng tăng trưởng sang mô hình dựa trên năng suất cao hơn, Việt Nam vẫn cần duy trì đầu tư bền vững, nhất là vào các công trình hạ tầng quan trọng.
Thứ tư, nâng cao năng lực quản lý và điều hành của bộ máy nhà nước là điều kiện tiên quyết để thực hiện hiệu quả các chính sách và tạo nền tảng cho Việt Nam trở thành nước thu nhập cao.
Cuối cùng, cần có các cơ chế vững chắc để bảo đảm tăng trưởng nhanh không làm gia tăng bất bình đẳng, và mọi người dân đều được hưởng thành quả từ quá trình phát triển thành nước thu nhập cao.
Để biến các chiến lược đầy tham vọng này thành kết quả cụ thể, Việt Nam cần các khoản đầu tư chất lượng cao. Hiện nay, Việt Nam đã tiếp cận được nhiều công cụ tài chính, nhưng Ngân hàng Thế giới có lợi thế đặc biệt: khả năng cung cấp tài chính quy mô lớn, đa ngành, dài hạn cùng với chuyên môn toàn cầu. Chúng tôi mong muốn hợp tác chặt chẽ với Bộ Tài chính để triển khai hiệu quả các nguồn lực này, góp phần thúc đẩy hành trình của Việt Nam hướng tới mục tiêu 2045.
PV: Chặng đường gần 40 năm đổi mới đã ghi dấu một Việt Nam kiên cường, bứt phá và khát khao phát triển. Để đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển cao vào năm 2045, hiện nay ngoài các thành phần kinh tế kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, thì kinh tế tư nhân rất được coi trọng. Việt Nam coi đây là lực lượng tiên phong trong kỷ nguyên mới, trở thành động lực dẫn dắt nền kinh tế vươn ra thị trường quốc tế, bà nghĩ sao về vấn đề này?
Chúng tôi đánh giá cao chiến lược của Việt Nam khi xác định khu vực tư nhân là động lực chính cho tăng trưởng và hội nhập quốc tế trong tương lai. Nghị quyết 68 khẳng định vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân, đây là tín hiệu tích cực; việc thực hiện hiệu quả sẽ là chìa khóa để phát huy tối đa tiềm năng của doanh nghiệp Việt Nam và bảo đảm mọi doanh nghiệp, dù lớn hay nhỏ, đều có thể đóng góp vào sự phát triển thịnh vượng, bền vững của nền kinh tế.
Chuyển đổi quan trọng hiện nay là Nhà nước cần chuyển từ vai trò điều hành trực tiếp sang vai trò kiến tạo, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động kinh tế. Điều này đòi hỏi việc xây dựng một môi trường cạnh tranh thực sự bình đẳng, nơi mọi doanh nghiệp tư nhân - từ các startup cho đến các tập đoàn lớn, đều có cơ hội cạnh tranh, phát triển và thành công. Cần chú trọng đơn giản hóa thủ tục hành chính, nâng cao khả năng tiếp cận vốn, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy đổi mới công nghệ và sáng tạo, cũng như giải quyết tranh chấp một cách hiệu quả. Một môi trường pháp lý minh bạch, nhất quán và dễ dự đoán là yếu tố thiết yếu để hỗ trợ khu vực tư nhân phát triển.
Đây cũng là lĩnh vực mà sứ mệnh của Nhóm Ngân hàng Thế giới hòa nhịp cùng khát vọng của Việt Nam. Chúng tôi đang chuyển đổi từ một tổ chức chủ yếu cung cấp tài chính cho khu vực công sang vai trò khơi nguồn và huy động vốn tư nhân. Thông qua sức mạnh tổng hợp của Ngân hàng Thế giới, Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC) và Cơ quan Bảo lãnh Đầu tư Đa phương (MIGA), chúng tôi hỗ trợ toàn diện cho hệ sinh thái phát triển: vừa giúp Chính phủ xây dựng hạ tầng vững chắc và chính sách ổn định để thu hút đầu tư, vừa trực tiếp cung cấp tài chính, vốn cổ phần, bảo lãnh và bảo hiểm rủi ro để thu hút nhà đầu tư tư nhân. Mục tiêu chung của Nhóm Ngân hàng Thế giới là đồng hành cùng Việt Nam xây dựng một khu vực tư nhân năng động, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm cho người dân và mang lại sự thịnh vượng bền vững cho toàn xã hội.
Nhóm phóng viên
Nguồn Tài Chính : http://tapchitaichinh.vn/nhung-uu-tien-chien-luoc-cho-viet-nam-trong-20-nam-toi.html