Năm 1968, từ miền quê Thanh Chương, Nghệ An, chàng thanh niên 22 tuổi Nguyễn Ngọc Bính tình nguyện lên đường ra trận. Hành trang là sức mạnh tinh thần và truyền thống quê hương, cùng sự chịu thương, chịu khó, tính cách can trường, bền bỉ, quyết liệt của người con xứ Nghệ đã giúp ông lập nhiều chiến công.
Sau 4 tháng huấn luyện tại Đoàn 222, Quân khu 4, Nguyễn Ngọc Bính hành quân sang Lào. Tháng 11-1969, ông là Khẩu đội trưởng Pháo cao xạ, thuộc Tiểu đoàn 1, Binh trạm 11, tham gia chiến đấu ở mặt trận Thượng Lào và đã lập được nhiều chiến công xuất sắc. Đặc biệt, trong trận chiến đấu bảo vệ các trọng điểm giao thông quan trọng ở Thượng Lào ngày 20-11-1969, đơn vị do ông chỉ huy đã bắn cháy một chiếc máy bay F-105 của địch.
Ghi nhận chiến công của ông, ngày 28-2-1970, Chi bộ Đại đội 6, Tiểu đoàn 1, Binh trạm 11 đã tổ chức kết nạp Khẩu đội trưởng Nguyễn Ngọc Bính vào Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam). Đây là vinh dự và động lực lớn để đảng viên Nguyễn Ngọc Bính tiếp tục phấn đấu, rèn luyện.
Cựu chiến binh, thương binh Nguyễn Ngọc Bính (ngồi giữa) cùng đồng đội ôn lại những kỷ niệm trong Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Những ngày chiến đấu trên chiến trường Lào nhiều cam go, thử thách luôn khắc sâu trong tâm trí người cựu chiến binh già. Ông chia sẻ: “Sự sống và cái chết của những người lính thế hệ chúng tôi rất mong manh, chỉ một sơ suất nhỏ, chúng tôi có thể phải đánh đổi cả tính mạng. Nhưng chúng tôi đã sống và chiến đấu vì một lý tưởng cao đẹp, vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Những ngày tháng ấy sẽ mãi là kỷ niệm không thể nào quên trong cuộc đời tôi”.
Sau gần 2 năm chiến đấu trên đất bạn Lào, tháng 5-1971, ông hành quân về nước trong đội hình Đại đội 7, Tiểu đoàn 121, Quân khu 7, tiếp tục chiến đấu bảo vệ Vĩnh Linh (Quảng Trị), tham gia Chiến dịch giải phóng Trị Thiên và đã lập chiến công xuất sắc. Hoàn thành nhiệm vụ, ông cùng đồng đội tiếp tục tham gia bảo vệ Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Tháng 9-1973, đơn vị ông vinh dự được tham gia bảo vệ chuyến thăm Quảng Trị của lãnh tụ Cuba Fidel Castro.
Ngày 31-3-1975, Bộ Chính trị họp và đưa ra nhận định: “Về chiến lược, về lực lượng quân sự, chính trị, ta đã có sức mạnh áp đảo, địch đang đứng trước nguy cơ sụp đổ và diệt vong. Mỹ tỏ ra hoàn toàn bất lực, dù có tăng viện cũng không cứu vãn được tình thế của ngụy. Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam không những đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt, mà thời cơ để mở Tổng tiến công và nổi dậy tại Sài Gòn - Gia Định đã chín muồi. Từ giờ phút này, trận quyết chiến chiến lược của quân và dân ta đã bắt đầu”.
Thực hiện chủ trương đó, sau khi cùng tổ lái xe và cán bộ ra nhận khí tài mới chuẩn bị cho Chiến dịch Hồ Chí Minh, ông lại cùng đồng đội hành quân vượt dãy Trường Sơn tham gia chiến đấu bảo vệ theo hướng Đồng Nai vào Sài Gòn.
Mỗi khi nhớ lại khoảnh khắc lịch sử này, ông không giấu được xúc động. Bao ký ức lại hiện về trong tâm trí của ông: “Mặc dù hành quân liên tục mấy ngày đêm, chỉ có lương khô, nhưng tôi và đồng đội vẫn hừng hực khí thế. Thông qua chiếc đài radio mang theo, chúng tôi biết quân và dân cả nước đang “thần tốc - quyết thắng” cho trận chiến quyết định này”.
Ngày 2-4-1975, đơn vị ông được giao nhiệm vụ phối thuộc với Sư đoàn 6, Quân khu 7 đánh địch ở Đồng Nai bảo vệ sân bay Biên Hòa. Những ngày đó, địch liên tục ném bom, nã pháo cản đường, rất nhiều đồng đội đã anh dũng hy sinh. Người trước ngã xuống, người sau lại xông lên, sự hy sinh của đồng đội càng tiếp thêm sức mạnh để anh em trong đơn vị vượt qua gian nan, thử thách, chiến đấu kiên cường, dũng cảm.
Sau khi giải phóng Biên Hòa, sáng 30-4-1975, đơn vị ông tiến sát vào cầu Sài Gòn. Đến 11 giờ 30 phút, ngày 30-4-1975, khi nghe tin từ loa phóng thanh, Sài Gòn - Gia Định hoàn toàn được giải phóng, Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, kết thúc 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, ông đã ôm chầm đồng đội vui mừng, cảm xúc vỡ òa trong nước mắt. Ông hạnh phúc bởi lẽ ông cùng đơn vị đã góp phần quan trọng vào chiến thắng chung của đất nước: “Chúng tôi vui mừng lắm, vậy là hòa bình đã trở lại, nhìn thấy lá cờ đỏ sao vàng tung bay, anh em tự hào và xúc động vô cùng”. Ông cũng hiểu rằng, con đường mà cả dân tộc đã đi qua để toàn thắng là con đường đầy gian khổ và phải đánh đổi bằng xương máu của biết bao thế hệ.
Hòa trong niềm vui chiến thắng, một lần nữa, ông lại vinh dự khi được tham gia đội hình diễu binh mừng chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Hai bên đường, bà con vẫy cờ và hoa tưng bừng; trên các tòa nhà cao tầng, cờ đỏ sao vàng tung bay phấp phới. Ai cũng như ai, đều rất vui mừng chào và ôm nhau thân thiện, đoàn người hô vang: “Sài Gòn giải phóng rồi! Sài Gòn giải phóng rồi!...”.
Sau ngày giải phóng, ông tiếp tục cùng đồng đội thực hiện nhiệm vụ tiếp quản Sài Gòn và cùng với cán bộ, nhân dân thành phố truy quét tàn binh, thu hồi, quản lý trang bị, vũ khí của địch; tham gia xây dựng chính quyền cách mạng và lực lượng vũ trang ở cơ sở, góp phần nhanh chóng ổn định đời sống sinh hoạt và sản xuất của nhân dân miền Nam.
Hơn 8 năm tham gia chiến đấu trên các chiến trường, mặc dù nhiều lần bị thương, nhưng Khẩu đội trưởng Nguyễn Ngọc Bính luôn dũng cảm chiến đấu và lập được nhiều chiến công xuất sắc. Ghi nhận những thành tích trong chiến đấu, cựu chiến binh Nguyễn Ngọc Bính được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến, Huân chương Chiến sĩ giải phóng, cùng nhiều phần thưởng cao quý khác.
Năm 1976, do sức khỏe yếu, thương binh 4/4 Nguyễn Ngọc Bính xuất ngũ về địa phương. Về với cuộc sống đời thường, ông luôn tự dặn mình, dù ở cương vị nào, hoàn cảnh nào, cũng phải phát huy tốt phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ. Nhiều năm liền, ông là cán bộ sản xuất gương mẫu của xã, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh và bây giờ là Chi hội trưởng Hội người cao tuổi. Ông đã góp phần giúp xây dựng quê hương Thanh Chương ngày càng văn minh và giàu đẹp hơn.
Bài, ảnh: TRÀ MY