Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) trong một báo cáo gần đây cho hay NIM (TTM) của 27 ngân hàng niêm yết trong hệ thống tính đến hết quý III/2025 đã giảm 35 điểm % svck xuống 3,15% - mức thấp nhất kể từ 2018. Nguyên nhân đến từ áp lực huy động tăng trong bối cảnh lãi suất cho vay chưa được điều chỉnh tương ứng.
NIM ngân hàng diễn biến phân hóa, với tín hiệu cải thiện tích cực ở một số ngân hàng tư nhân quy mô vừa và lớn như OCB, STB, VIB, MBB, VPB... nhờ duy trì tăng trưởng tín dụng và tỷ trọng cho vay bán lẻ cao.
Trong khi đó, nhóm ngân hàng gốc quốc doanh (VCB, BID, CTG) vẫn ghi nhận NIM ở vùng thấp 2,0%– 2,6% do phải ưu tiên duy trì mặt bằng lãi suất cho vay thấp dù chi phí huy động tăng nhanh.
Tương tự, nhóm ngân hàng quy mô nhỏ có NIM bình quân quý III/2025 giảm xuống mức 2,4%, thấp hơn tương đối so với mức bình quân toàn ngành và là mức thấp nhất trong nhiều quý trở lại đây, chủ yếu do áp lực từ chi phí vốn trong khi tăng trưởng tín dụng tại một số ngân hàng vẫn ở mức thấp so với trung vị ngành.
Trong số 9 ngân hàng niêm yết quy mô nhỏ (tổng tài sản dưới 300.000 tỷ) ngoại trừ NCB, nhiều ngân hàng có NIM tiếp tục giảm so với quý trước và hiện đang ở mức thấp nhất trong nhiều quý như Eximbank, Bac A Bank, Saigonbank, PGBank...
Ảnh: T.D tổng hợp.
Một số ngân hàng như ABBank, Kienlongbank, BVBank, Viet A Bank có NIM quý III cải thiện so với quý liền trước nhờ tăng tỷ trọng cho vay trung dài hạn (Kienlongbank, BVBank) và diễn biến tích cực của chất lượng tài sản (ABBank) giúp nâng cao lợi suất tài sản sinh lãi... Dù vậy, nếu so với thời điểm đầu năm, hầu hết ngân hàng vẫn ghi nhận NIM giảm.
Việc NIM quý III/2025 sụt giảm tại nhiều ngân hàng nhỏ là tương đồng với xu hướng của hệ thống trong bối cảnh cạnh tranh mạnh mẽ và tăng trưởng tín dụng tại một số nhà băng nhỏ vẫn thấp hơn tương đối so với trung bình ngành.
Lợi thế cạnh tranh hạn chế so với các nhóm ngân hàng khác, nhiều ngân hàng nhỏ đang đối diện với sức ép lớn về NIM khi một mặt phải duy trì mặt bằng lãi suất cho vay ở mức thấp, mặt khác chi phí vốn đầu vào lại có xu hướng tăng do sức ép huy động. Cả 10 nhà băng quy mô nhỏ đều có tỷ lệ CASA ở mức thấp hơn trung bình ngành, trong đó nhiều ngân hàng có CASA trong top thấp nhất hệ thống như Bac A Bank (3,1%), Vietbank (4,4%), Kienlongbank (6%)...
Chênh lệch ngày càng hẹp giữa lãi suất cho vay và huy động kéo theo NIM sụt giảm.
Ảnh: T.D tổng hợp.
Cùng đó, việc phần lớn nhà băng nhỏ vẫn phụ thuộc chủ yếu vào thu nhập lãi thuần, trong khi các nguồn thu từ phí dịch vụ, đầu tư, bảo hiểm...còn khiêm tốn do hạn chế về hệ sinh thái, cũng dẫn đến tác động đáng kể từ áp lực NIM lên kết quả kinh doanh chung.
Một số ngân hàng nhỏ đang phát tín hiệu điều chỉnh chiến lược với việc tăng cường cho vay các lĩnh vực có lợi suất cao hơn như cho vay trung dài hạn, cho vay BĐS... để tối ưu tài sản sinh lãi, qua đó cải thiện NIM.
Về dài hạn, ông Nguyễn Thế Minh, Giám đốc Khối Nghiên cứu và Phát triển khách hàng cá nhân tại Chứng khoán Yuanta Việt Nam nhận định rằng một yếu tố quan trọng để cải thiện NIM ngân hàng - bao gồm các ngân hàng nhỏ - là việc kiểm soát tốt chi phí vốn đầu vào, tức cơ cấu nguồn vốn huy động. Bởi phần lớn ngân hàng hiện nay, trong đó có các ngân hàng nhỏ, vẫn đang phụ thuộc vào nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn.
Theo chuyên gia, mô hình này đặt ra thách thức lớn, nhất là trong điều kiện NHNN tiếp tục duy trì quy định giới hạn tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn ở mức tối đa 30%.
Để đảm bảo tuân thủ quy định cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động, các ngân hàng buộc phải đa dạng hóa và kéo dài kỳ hạn nguồn vốn. Một số giải pháp bao gồm tăng cường huy động vốn trung dài hạn thông qua phát hành chứng chỉ tiền gửi kỳ hạn dài, phát hành trái phiếu dài hạn, tăng vốn tự có thông qua phát hành cổ phiếu.
Tương tự, VIS Rating trong báo cáo ngành ngân hàng 9 tháng đầu năm mới cập nhật cũng nhận định nhóm ngân hàng nhỏ với tỷ lệ cho vay trên huy động (LDR) duy trì ở mức cao và phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn ngắn hạn đang tiếp tục đối diện với áp lực thanh khoản.
Từ đầu năm đến nay, một số ngân hàng nhỏ như VietABank, Vietbank, Kienlongbank, BVBank và Saigonbank đã công bố kế hoạch niêm yết cổ phiếu trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP Hồ Chí Minh (HOSE) giai đoạn 2025– 2026. Việc "chuyển nhà" lên HoSE được kỳ vọng sẽ giúp các ngân hàng nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn mới, đặc biệt từ nhà đầu tư nước ngoài, qua đó tăng cường bộ đệm hấp thụ rủi ro và hỗ trợ mục tiêu tăng trưởng tín dụng cao.
Tuy nhiên trong ngắn hạn, VIS Rating đánh giá các ngân hàng nhỏ vẫn sẽ tiếp tục dựa vào việc phát hành trái phiếu thứ cấp để đáp ứng nhu cầu vốn cấp thiết. Nhóm xếp hạng tín nhiệm ước tính đến cuối năm 2024, tỷ lệ vốn cấp 1 bình quân tại các ngân hàng nhỏ khoảng 8,7%, thấp hơn đáng kể so với trung bình toàn ngành là 10,4%. Dù vậy, các ngân hàng này vẫn đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng từ 16%-20% trong năm 2025, cao hơn mục tiêu tăng trưởng của toàn ngành.
So với các nhóm ngân hàng khác, VIS Rating đánh giá nhóm ngân hàng nhỏ đối mặt với áp lực vốn lớn hơn đáng kể do khả năng sinh lời hạn chế, chất lượng tài sản thấp hơn và khó khăn trong việc huy động vốn chủ sở hữu. Tỷ suất sinh lời trên tài sản bình quân (ROAA) chỉ đạt 0,6% trong giai đoạn 2020–2024, so với mức trung bình ngành là 1,4%. Một số ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu ở mức cao trong hệ thống. Thêm vào đó, khả năng huy động vốn chủ sở hữu của nhóm này khá hạn chế bởi lợi nhuận thấp và chưa đủ hấp dẫn đối với nhà đầu tư.
Do vậy, trong bối cảnh yêu cầu tăng vốn ngày càng trở nên cấp thiết, các ngân hàng nhỏ sẽ cần chủ động triển khai các phương án bổ sung vốn để duy trì an toàn vốn tối thiểu đáp ứng chuẩn Basel II/III, đồng thời có đủ dư địa để cải thiện và nâng cao NIM trong giai đoạn tiếp theo.
Trong ngắn hạn, Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) nhận định dư địa cải thiện NIM của toàn ngành có thể sẽ hạn chế, chủ yếu do áp lực từ chi phí vốn tăng nhanh hơn so với lãi suất đầu ra.
Về phía đầu vào, chi phí huy động được dự báo sẽ nhiều áp lực trong giai đoạn cuối năm do nhu cầu giải ngân tín dụng về cuối năm thường cao và khoảng cách hiện tại giữa huy động và tín dụng.
Về phía đầu ra, mặc dù các khoản vay trung dài hạn đã được ưu tiên giải ngân trong hai quý gần nhất, chuyên gia dự báo lợi suất cho vay chưa thể tăng lên ngay trong ngắn hạn do những khoản cho vay trung dài hạn của khách hàng cá nhân thường được ưu đãi lãi suất trong khoảng thời gian từ 6 tháng – 3 năm.
Diên Vỹ