Ninh Bình: Khai mở không gian, phát triển kinh tế biển đa ngành

Ninh Bình: Khai mở không gian, phát triển kinh tế biển đa ngành
2 giờ trướcBài gốc
Sau sáp nhập, tỉnh Ninh Bình đứng trước những thời cơ và dư địa lớn để khai thác, phát triển nền kinh tế biển đa ngành, hiện đại, bền vững. Từ nuôi trồng thủy sản, dịch vụ hậu cần nghề cá, phát triển cảng biển logistics đến du lịch ven biển, năng lượng tái tạo… Tất cả đang “hợp lực” từng bước biến tiềm năng này trở thành trụ cột bền vững cho tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Nhận diện những tiềm năng, đồng thời bám sát những mục tiêu, giải pháp của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030, các cấp, các ngành, địa phương đang nỗ lực cụ thể hóa bằng những chương trình, hành động thiết thực nhằm khai thác tốt hơn không gian mới.
Sau hợp nhất, tỉnh Ninh Bình có quy mô diện tích gần 4.000 km2 và dân số hơn 4,4 triệu người. Phía Đông Bắc giáp tỉnh Hưng Yên, phía Tây Bắc giáp Phú Thọ và Hà Nội, phía Nam giáp tỉnh Thanh Hóa và phía Đông Nam giáp vùng biển thềm lục địa vịnh Bắc Bộ. Vị trí địa lý vừa giáp biển, vừa tiếp giáp với các khu vực kinh tế năng động, tạo ra dư địa lớn thúc đẩy tăng trưởng nội vùng, phát triển kinh tế biển của Ninh Bình. Đặc biệt, sau sáp nhập, không gian biển, ven biển của Ninh Bình được mở rộng với chiều dài bờ biển khoảng 90 km, vươn ra vịnh Bắc Bộ-bắc Biển Đông. Đây là lợi thế vượt trội để phát triển kinh tế biển đa ngành như du lịch sinh thái, văn hóa, nuôi trồng thủy sản, dịch vụ cảng biển và năng lượng tái tạo.
Đánh giá về tiềm năng vùng biển của Ninh Bình sau hợp nhất, PGS.TS Nguyễn Chu Hồi, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam cho biết: Ninh Bình sở hữu cấu trúc lãnh thổ đa dạng với 25% diện tích là vùng núi, 72% là đồng bằng, khoảng 3% là vùng ven biển, châu thổ. Với vị trí nằm ở phía Nam đồng bằng châu thổ sông Hồng, một trong những châu thổ (Delta) lớn ở Đông Á và thế giới, hàng năm vùng châu thổ ở Ninh Bình liên tục được bồi tụ nhờ quá trình sông thắng thế quá trình thủy triều làm không ngừng gia tăng “quỹ đất bồi” tự nhiên ven biển của tỉnh, nhất là các vùng cửa sông như Ba Lạt, Hà Lạn, Lạch Giang, Đáy, Lạch Càn, nơi tiếp nhận lượng phù sa dồi dào từ lưu vực sông Hồng, sông Đáy với hệ sinh thái phong phú như rừng ngập mặn, thảm cỏ biển, bãi cát biển, cồn cát…
Vùng biển thềm lục địa vịnh Bắc Bộ ngoài khơi của tỉnh có ngư trường phong phú với các bãi cá, tôm có trữ lượng lớn. Đặc biệt, theo PGS.TS Nguyễn Chu Hồi, dưới lòng đất thuộc thềm lục địa vịnh Bắc Bộ, khu vực này có bồn trầm tích sông Hồng kéo dài, nơi đây đã phát hiện có tiềm năng tài nguyên dầu khí, băng cháy, khoáng sản sa khoáng. Dọc ven biển, hệ sinh thái đất ngập nước phong phú với các bãi giống, bãi đẻ của các loài thủy sản, các loài chim nước và chim trú đông từ phương Bắc di cư tạo nền tảng phát triển kinh tế xanh, bảo tồn đa dạng sinh học và du lịch bền vững.
Vườn Quốc gia Xuân Thủy là nơi trú ngụ, sinh sản của nhiều loài chim quý hiếm. Ảnh: Trần Hưng
Nơi đây cũng là vùng truyền thống phát triển nghề muối, nuôi trồng thủy sản, trồng cói và lấn biển phục vụ sản xuất. Vùng biển Ninh Bình thuộc Khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng, trong đó Vườn Quốc gia Xuân Thủy là khu RAMSAR quốc tế, là “sân ga chim” với các giá trị toàn cầu về bảo tồn sinh thái châu thổ. Ông Phạm Vũ Ánh, Phó Giám đốc Vườn Quốc gia Xuân Thủy cho biết: “Vườn quốc gia có 1.171 ha rừng ngập mặn và 8.000 ha vùng đệm. Bên cạnh những giá trị về mặt phòng hộ như: Cố định phù sa, lưu trữ các-bon, phòng, chống thiên tai, bão, lũ, rừng ngập mặn còn là vườn ươm, nơi trú ngụ, sinh sản của nhiều loài thủy sản, loài chim quý hiếm. Đặc biệt, Vườn đã phối hợp chính quyền và người dân xây dựng hiệu quả các mô hình du lịch cộng đồng, khai thác bền vững nguồn lợi thủy sản nhằm bảo đảm sinh kế, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên”.
Tận dụng chiều dài gần 90 km bờ biển, nhiều cửa sông lớn cùng vùng triều, đầm phá rộng, Ninh Bình sở hữu một không gian kinh tế biển đa dạng, giàu tiềm năng để phát triển đa ngành, đa chuỗi. Thời gian qua, nhiều địa phương ven biển đã chủ động mở hướng đi mới trong nuôi trồng thủy hải sản công nghệ cao, chế biến sâu, phát triển thương hiệu OCOP, đầu tư hạ tầng cảng cá, logistics và đẩy mạnh du lịch trải nghiệm biển, hướng đến mô hình kinh tế biển hiện đại, bền vững.
Mô hình nuôi ngao mang lại thu nhập ổn định cho người dân ven biển xã Kim Đông.
Là vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi với bãi triều rộng, độ mặn ổn định, xã Kim Đông từ lâu đã trở thành khu vực nuôi trồng thủy sản trọng điểm của tỉnh với hơn 5.500 ha, trong đó có gần 1.000 ha nuôi tôm trên ao nổi, ao bạt, công nghiệp và 1.300 ha nuôi ngao thương phẩm, cung ứng ra thị trường gần 300.000 tấn mỗi năm, mang lại giá trị kinh tế cao cho người dân địa phương. Ngoài ra, nghề sản xuất hàu giống và ngao giống cũng phát triển mạnh mẽ, hiện toàn xã có hơn 300 trại ngao và hàu giống, cung ứng ra thị trường khoảng 90 tỷ con giống/năm. Được sự quan tâm của tỉnh, ngành chức năng, hàu giống nơi đây đã được chứng nhận nhãn hiệu tập thể, có tem truy xuất nguồn gốc, qua đó vừa góp phần khẳng định thương hiệu trên thị trường, vừa đem lại lợi ích cho cả người mua và người bán.
Đồng chí Hoàng Trọng Lễ, Bí thư Đảng ủy xã Kim Đông cho biết: “Năm 2023, vùng nuôi ngao của địa phương đã đạt chứng nhận ASC quốc tế, trở thành vùng nuôi thứ hai tại Việt Nam có tấm “giấy thông hành” quan trọng này để tham gia các thị trường khó tính. Địa phương sẽ đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, phát triển liên kết chuỗi, khuyến khích mô hình nuôi luân canh, xen canh nhằm giảm áp lực lên hệ sinh thái. Mục tiêu là nâng cao giá trị trên cùng diện tích, nhưng vẫn đảm bảo phát triển bền vững”.
Ngư dân Hải Tiến đánh bắt cá.
Bên cạnh lợi thế của ngành nuôi trồng thủy, hải sản, Ninh Bình hiện có hơn 1.800 tàu thuyền thường xuyên ra khơi khai thác, vì vậy tạo nguồn nguyên liệu phong phú cho ngành chế biến thủy, hải sản. Tận dụng lợi thế này, các doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư dây chuyền hiện đại nhằm phát triển ngành công nghiệp chế biến sâu, nâng cao giá trị gia tăng và hoàn thiện chuỗi kinh tế biển đa ngành của tỉnh. Công ty TNHH MTV Hải sản Hùng Vương, xã Giao Phúc là một trong những đơn vị đã tiên phong đi đầu, góp phần khẳng định vị thế của hải sản Ninh Bình trên thị trường.
Ông Nguyễn Hùng Vương, Giám đốc Công ty cho biết: Công ty Hùng Vương hiện sản xuất hơn mười nhóm sản phẩm thủy - hải sản, trong đó có chín sản phẩm chủ lực đã được công bố chất lượng, đăng ký nhãn hiệu độc quyền, công nhận sản phẩm OCOP như chả cá, tép moi, chả mực, tôm nõn khô, tôm nõn hấp, tôm nõn tươi, cá tẩm gia vị, nõn bề bề. Riêng chả cá và tép moi đã trở thành mặt hàng chủ lực, cung cấp thường xuyên cho các khu công nghiệp, bếp ăn tập thể và hệ thống tiêu dùng tại nhiều tỉnh, thành. Để đảm bảo chất lượng đầu vào, Công ty ký hợp đồng thu mua nguyên liệu trực tiếp tại cảng cá Giao Hải, đồng thời áp dụng hệ thống quản lý an toàn thực phẩm HACCP, xây dựng quy trình sản xuất khép kín, hướng tới mô hình chế biến sạch, an toàn, đạt chuẩn tiêu chí quốc tế.
Vào mùa cao điểm, hàng tháng Công ty có thể xuất bán ra thị trường khoảng 300 tấn tép moi khô, hàng trăm tấn cá, chả, tôm các loại; tạo công ăn việc làm ổn định cho hơn 30 công nhân với mức thu nhập từ 12-15 triệu đồng/người/tháng.
Sự năng động của những công ty như Công ty Hùng Vương đang góp phần làm cho bức tranh kinh tế biển Ninh Bình chuyển dịch mạnh mẽ sang mô hình đa ngành, trong đó chế biến sâu đóng vai trò quan trọng, bảo đảm sản phẩm biển không chỉ dừng lại ở khai thác, nuôi trồng mà còn được gia tăng giá trị, nâng tầm thương hiệu và mang lại thu nhập ổn định cho người dân vùng biển.
Du lịch trải nghiệm và du lịch sinh thái biển đang có nhiều tín hiệu bứt phá.
Không chỉ dừng lại ở khai thác và nuôi trồng, kinh tế biển Ninh Bình còn mở ra hướng phát triển mới từ du lịch trải nghiệm và du lịch sinh thái biển, lĩnh vực đang có nhiều tín hiệu bứt phá. Với hệ sinh thái ngập mặn đa dạng, cảnh quan vùng cửa sông, ven biển đặc trưng và các bãi tắm tiềm năng… đã thu hút lượng lớn du khách trong thời gian qua.
Chị Doãn Thị Thoa, chủ cơ sở lưu trú An Eco Homestay, xã Giao Hòa cho biết cơ sở của chị có 15 phòng, mùa đông luôn đạt công suất 80 -100%, chủ yếu là khách châu Âu tới khám phá thiên nhiên. Du khách khi tới đây sẽ được trải nghiệm khám phá các tour trong rừng ngập mặn, xem chim di trú ở Xuân Thủy, tham quan các nhà thờ vùng ven biển hoặc cùng người dân trồng cây ngập mặn.
Ở góc độ ngành Du lịch, bà Dương Thị Thanh, Chủ tịch Hiệp hội Du lịch tỉnh cho rằng phát triển du lịch biển chính là một mảnh ghép quan trọng trong bức tranh kinh tế biển đa ngành của tỉnh.
Với hệ thống cảng biển, cảng sông dày đặc, Ninh Bình đang từng bước định hình lợi thế chiến lược để phát triển logistics biển và dịch vụ hậu cần nghề cá, hướng tới mục tiêu trở thành trung tâm logistics cấp vùng trong tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Thanh Hóa. Nổi bật nhất là Khu kinh tế Ninh Cơ, tổ hợp kinh tế biển gần 14.000 ha đã được Chính phủ phê duyệt, định hướng trở thành khu kinh tế ven biển đa ngành, đa chức năng. Trong tương lai, nơi đây sẽ có cảng biển nước sâu, tạo trục kết nối hoàn chỉnh giữa đường biển - đường bộ - đường sắt, mở ra không gian phát triển mới và thu hút các tập đoàn logistics quốc tế.
Đồng thời, các cảng đầu mối trên sông Đáy và sông Hồng như Cảng Thái Hà, Ninh Phúc, Long Sơn, Khánh An… tạo thành mạng lưới vận tải thủy liên vùng. Đặc biệt, kênh nối Đáy - Ninh Cơ đi vào hoạt động giúp rút ngắn hành trình từ Ninh Bình tới Hải Phòng - Quảng Ninh, giảm chi phí vận tải và thúc đẩy logistics xanh.
Phát triển bền vững kinh tế biển đã trở thành tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của Đảng và Nhà nước, thể hiện nhất quán qua các kỳ Đại hội. Từ Nghị quyết 09-NQ/TW năm 2007 đến Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam xác định rõ mục tiêu: trở thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền vững trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn sinh thái và ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.
Những năm qua, nhận diện được tiềm năng, lợi thế từ biển, các tỉnh Nam Định, Ninh Bình (cũ) đã ban hành nhiều chương trình, hành động nhằm cụ thể hóa các chính sách và khai thác tối đa tiềm năng kinh tế biển như Chương trình hành động số 28 của Tỉnh ủy Nam Định (cũ), Nghị quyết số 05-NQ/TU về phát triển vùng kinh tế ven biển giai đoạn 2021-2025 và những năm tiếp theo; Kế hoạch số 81/KH-UBND về việc thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU của Tỉnh ủy Nam Định, tập trung vào xây dựng và phát triển kinh tế biển, ven biển tỉnh Nam Định giai đoạn 2021-2025 và những năm tiếp theo… Tỉnh Ninh Bình (cũ) đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TU về phát triển bền vững kinh tế ven biển giai đoạn 2022-2030, Kế hoạch số 202/KH-UBND ngày 29/12/2022, đồng thời kết hợp thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW của Trung ương về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045.
Tuyến đường bộ mới Nam Định - Lạc Quần - Đường bộ ven biển đoạn qua xã Hải Quang.
Sau hợp nhất, không gian biển mở rộng, đồng thời những quan điểm, tư duy phát triển kinh tế biển bền vững tiếp tục được hệ thống hóa trong các văn bản, định hướng chỉ đạo của tỉnh. Cụ thể ngay sau hợp nhất, Ninh Bình thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển tỉnh Ninh Bình đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 do đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh làm Trưởng ban. Ban Chỉ đạo có nhiệm vụ triển khai các chủ trương, giải pháp tại Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII và Nghị quyết số 26/NQ-CP ngày 5/3/2020 của Chính phủ, đồng thời thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch liên quan đến phát triển kinh tế biển tỉnh Ninh Bình.
Tại Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030, phát triển kinh tế biển tiếp tục được tỉnh quan tâm và xác định: “Đẩy mạnh khai thác và nuôi trồng thủy, hải sản với quy mô lớn, công nghệ cao, nâng cao giá trị gia tăng gắn với bảo vệ nguồn lợi thủy, hải sản. Tổ chức hợp lý các vùng có nhiều tiềm năng, lợi thế phát triển nông nghiệp, ngư nghiệp gắn với phát triển du lịch cộng đồng, du lịch trải nghiệm…”. Bám sát quan điểm chỉ đạo, mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ I đặt ra, các cấp, các ngành và đặc biệt là những địa phương có biển đang khẩn trương cụ thể hóa bằng những giải pháp đồng bộ.
Đồng chí Lưu Thị Nghiêm, Chủ tịch UBND xã Hải Tiến cho biết: Xã Hải Tiến có hơn 7 km bờ biển, gắn với địa điểm du lịch nổi tiếng được nhiều du khách trong và ngoài nước biết đến là Nhà thờ đổ - khu chứng tích biến đổi khí hậu. Để thực hiện mục tiêu đề ra trong nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ xã Hải Tiến lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh, xã đang xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế biển đa ngành với cách tiếp cận mới: vừa phát triển hạ tầng nuôi trồng thủy sản công nghệ cao, cảng cá và khu dịch vụ hậu cần nghề cá; vừa hoàn thiện sản phẩm du lịch sinh thái biển, du lịch trải nghiệm văn hóa - môi trường tại các khu vực bãi bồi, cửa sông.
Với gần 90 km bờ biển, một không gian phát triển hoàn toàn mới, mang ý nghĩa đột phá không chỉ với riêng địa phương mà còn với cả vùng Nam đồng bằng sông Hồng. Sự thay đổi ấy mang đến vô vàn cơ hội nhưng cũng đặt ra yêu cầu tái cấu trúc chiến lược phát triển, hình thành tư duy kinh tế biển đa ngành, hiện đại, bền vững. Bởi theo đánh giá của nhiều chuyên gia, mặc dù có tiềm năng và lợi thế lớn, Ninh Bình cũng phải đối mặt không ít khó khăn, thách thức để phát triển kinh tế biển bền vững như hệ thống hạ tầng còn hạn chế, ảnh hưởng của thiên tai như bão, nước biển dâng, xói lở, nước biển đục, cảnh quan ven biển đơn điệu…
Theo PGS.TS Nguyễn Chu Hồi, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, để phát triển kinh tế biển bền vững, Ninh Bình cần tiếp tục nhận diện, đánh giá và phát huy tốt hơn tiềm năng lợi thế biển. Đặc biệt quan trọng nhất là công tác quy hoạch cần đi trước một bước, tỉnh cần sớm điều chỉnh quy hoạch tỉnh trên cơ sở quy hoạch 3 tỉnh trước đây đã được Chính phủ phê duyệt, bảo đảm tính liên thông tự nhiên, liên kết vùng biển với nội địa, chuyển đổi xanh và chuyển đổi số hiệu quả dựa trên nguyên tắc phát triển các ngành du lịch, thủy sản, logistics và năng lượng tái tạo ở vùng biển Nam Định, Ninh Bình (cũ), trong khi khu vực Hà Nam (cũ) có nhiệm vụ kết nối nội địa, thúc đẩy tích hợp khu vực.
Đề xuất một số giải pháp để phát triển kinh tế biển đa ngành của Ninh Bình, PGS.TS Nguyễn Đức Toàn, Cục trưởng Cục biển và hải đảo Việt Nam cho rằng, Ninh Bình cần đầu tư phát triển du lịch và dịch vụ biển bền vững, trong đó tập trung phát triển các sản phẩm du lịch sinh thái và văn hóa như khu nghỉ dưỡng ven biển và tour di sản; đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch hiện đại như cảng xanh, dịch vụ du thuyền...
Nút giao tại cầu Lạc Quần.
Ngoài ra, với vị trí là “cửa ngõ thương mại hàng hải” của đồng bằng sông Hồng, Ninh Bình cần đầu tư phát triển logistics hàng hải hiện đại và xanh để tiếp nhận tàu lớn và tích hợp với mạng lưới giao thông nội địa (đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa) gắn với các khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển.
Bên cạnh đó, tỉnh cần đầu tư nuôi trồng thủy sản bền vững bằng cách thiết lập các vùng nuôi trồng ngoài khơi và hỗ trợ chuyển giao công nghệ; đầu tư năng lượng tái tạo và các ngành biển mới nổi bằng cách thực hiện nghiên cứu tính khả thi của các trang trại điện gió ngoài khơi, khuyến khích đầu tư vào nghiên cứu sinh học biển.
Không gian biển sau sáp nhập không chỉ giúp Ninh Bình “mở rộng bản đồ”, mà còn mở ra một hướng phát triển chiến lược, đòi hỏi tư duy dài hạn và sự quyết tâm chính trị cao. Tin tưởng rằng, với sự chủ động, nhất quán trong quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo của tỉnh; sự quyết liệt trong tổ chức thực hiện của các ngành; cùng sự đồng thuận của người dân và doanh nghiệp sẽ tạo thành nền tảng để Ninh Bình phát triển kinh tế biển đa ngành, bền vững, hiệu quả hơn. Ninh Bình hoàn toàn có thể kỳ vọng vào một bức tranh kinh tế sôi động trong thời gian tới, nơi kinh tế biển sẽ trở thành trụ cột bền vững, tạo sức bật mạnh mẽ để thúc đẩy các ngành, lĩnh vực cùng phát triển.
Minh Hải - Viết Dư
Nguồn Ninh Bình : https://baoninhbinh.org.vn/ninh-binh-khai-mo-khong-gian-phat-trien-kinh-te-bien-da-nganh-251210175531733.html