Ông Nguyễn Văn Tuyên, Giám đốc Hợp tác xã Gà đồi hữu cơ Tân Phú, giới thiệu về chế phẩm vi sinh bản địa tự tạo ra.
Hành trình “bắt” vi sinh vật
Không gian nghiên cứu, chế tạo ra các chủng vi sinh và kho phân… được ông Tuyên bố trí thành từng khu sau nhà. Ông khoe với chúng tôi, sau gần 5 năm nghiên cứu, mày mò và mang mẫu đi thử không biết bao nhiêu lần, cuối cùng (năm 2024) các mẫu vi sinh vật và phân hữu cơ của ông đã được Viện nghiên cứu và Ứng dụng Khoa học Công nghệ Việt Nam trả kết quả phân tích, đánh giá cao.
Sau gần 30 năm gắn bó với nông nghiệp, đặc biệt là chăn nuôi gà, ông Tuyên nhận ra sự phụ thuộc quá nhiều vào thuốc thú y và thức ăn công nghiệp khiến chi phí sản xuất cao, ảnh hưởng tới sức khỏe vật nuôi và môi trường. Nhìn rộng ra nông nghiệp, đất đai thoái hóa, chi phí đầu vào cao, trong khi chất lượng sản phẩm nông sản thấp. Tình cờ trong một lần tiếp cận thị trường tại Hà Nội, ông có cơ duyên gặp vị Giáo sư người Việt đang sinh sống tại nước ngoài nói về công nghệ vi sinh, sau đó lại được tập huấn về nông nghiệp hữu cơ nên ông quan sát, tự học và bắt đầu nghiên cứu cách “bắt” vi sinh vật tự nhiên.
Ông Nguyễn Văn Tuyên: Tôi thấy các loại hoa quả như táo, chuối, thu hút các loại vi sinh vật tìm đến, từ đó đã nảy ra ý tưởng tập trung hoa quả này vào trong thùng nhựa kết hợp với cám gạo để "dụ" vi sinh về ăn và sinh sôi ở đó. Sau khoảng 21 ngày, khi đã thu được lượng vi sinh vật nhất định, tôi bổ sung thêm đường và nước (theo tỷ lệ 10:1) để phân lập, nhân nuôi chủng vi sinh để tạo ra chế phẩm vi sinh bản địa (IMO).
Nói “bắt” vi sinh vật khó có người tin, kể cả nhiều nhà khoa học. Nhưng thực tế, vi sinh vật có ở khắp nơi, có con có lợi, con có hại. “Bắt” vi sinh vật đòi hỏi lắm công phu và có bí kíp riêng. Ông đã mất hơn một năm nghiên cứu, lăn lộn mày mò bên ruộng vườn, tự tìm hiểu qua các kênh thông tin và cũng thất bại nhiều lần mới cho ra được kết quả như bây giờ. Bởi, việc nhân nuôi hiệu quả hay không, ngoài tỷ lệ phối trộn nguyên liệu còn tùy thuộc vào thời tiết, theo mùa. Lúc đầu, không biết làm “công trình” này bốc mùi hôi thối do chủng vi sinh thấp, rồi ông điều chỉnh dần. Đến nay số khuẩn lạc/ml dung dịch mà ông nghiên cứu được chứa từ hàng trăm triệu đến hàng tỷ con.
Ông Tuyên sử dụng chế phẩm vi sinh pha với nước để phun tưới lên nên chuồng gà giúp xử lý chất thải nhanh, giảm mùi hôi, cải thiện môi trường.
Những vi sinh vật có lợi ở Việt Nam thường được nhập từ nước ngoài để bán. Trong nước, việc nuôi cấy vi sinh chủ yếu diễn ra ở các phòng nghiên cứu, phòng thí nghiệm lớn. Thế nên, khi biết ông tự tìm ra vi sinh vật, nhiều người đã không tin... và đã tìm về tận nhà ông tìm hiểu.
Theo ông, so với chủng vi sinh nhập khẩu, vi sinh bản địa cho chi phi thấp và tốt hơn nhiều vì có thể thu bắt và nuôi cấy trong môi trường tự nhiên ở địa phương; đa dạng, thích nghi tốt, phù hợp với tình hình khí hậu đặc trưng ở Việt Nam. Tỷ lệ vi sinh càng cao, sẽ giúp phân hủy rác thải nhanh, cải tạo đất, môi trường và cung cấp nguồn dinh dưỡng cho cây. Do vậy, “công trình” này vô cùng giá trị, được xem như “chìa khóa vàng” trong phát triển nông nghiệp.
Ứng dụng trong trồng trọt, chăn nuôi
Hợp tác xã (HTX) Gà đồi Tân Phú nuôi chủ yếu là gà thịt, gà đẻ trứng. Riêng gia đình ông, ngoài nuôi gà, ông nuôi thêm giun quế làm thức ăn cho gà, nuôi lươn. Với chế phẩm men vi sinh gốc nghiên cứu thành công, ông Tuyên đã phát triển thành nhiều dòng sản phẩm phục vụ nông nghiệp như chế phẩm ủ thức ăn chăn nuôi, thuốc trừ sâu sinh học, phân bón lá, phân bón gốc, cải tạo đất và xử lý môi trường trong chăn nuôi…
Phân các loại được ông Tuyên tập kết về kho để xử lý bằng chế phẩm vi sinh trước khi xuất bán.
Từ men vi sinh gốc, ông đã điều chế ra đạm thủy phân để phối trộn với thức ăn chăn nuôi theo tỷ lệ 5 lít chế phẩm/1 tấn thức ăn. Cách làm này giúp tăng cường sức đề kháng cho vật nuôi, hạn chế bệnh tật, giảm chi phí kháng sinh và nâng cao chất lượng thịt. Ngoài ra, ông sử dụng chế phẩm vi sinh pha với nước để phun tưới lên nền chuồng có rải mùn cưa, rơm rạ… Hệ thống vi sinh vật giúp phân giải phân, nước tiểu, giảm mùi hôi và hạn chế dịch bệnh. Nhờ đó, không chỉ vật nuôi khỏe mạnh hơn mà điều kiện làm việc của người chăn nuôi cũng được cải thiện đáng kể.
Nhận thấy những lợi ích thiết thực, năm 2023, Hiệp hội Hữu cơ Việt Nam đã triển khai mô hình trình diễn về ứng dụng đệm lót sinh học trong chăn nuôi gà tại HTX Gà đồi hữu cơ Tân Phú. Hiệu quả bước đầu đã giúp lan tỏa mô hình này đến nhiều nông dân trên địa bàn.
Bên cạnh chăn nuôi, ông Tuyên cũng tận dụng chế phẩm vi sinh để ủ phân hữu cơ, giúp khử mùi và tăng cường dinh dưỡng cho đất. Loại phân này giúp cải tạo đất hiệu quả, làm đất tơi xốp và cải thiện năng suất cây trồng. Ông đang sản xuất và cung cấp nguồn phân bón hữu cơ cho nhiều đơn vị, hợp tác xã, hộ dân chăn nuôi trên địa bàn như HTX Chè Trung du Tân Cương, Công ty TNHH sản xuất và dịch vụ thương mại Phát Tâm, HTX Chè Nhật Thức, Hội Làm vườn xã Tân Khánh và một số nông trại rau xanh tại Hà Nội và Hưng Yên…
Trung bình mỗi tháng, ông xuất bán từ 20-25 tấn phân hữu cơ vi sinh. Với mức giá 5.500 đồng/kg, sản phẩm của ông rẻ hơn gấp nhiều lần so với phân hữu cơ và phân hóa học bán trên thị trường.
Lớp tập huấn về sản xuất, quản lý chất lượng, chứng nhận sản phẩm hữu cơ gắn với thích ứng biến đối khí hậu do Viện Quản lý đất đai và Phát triển nông thôn (Trường Đại học Lâm nghiệp) tổ chức, có chuyến thực tế tại một số địa điểm sử dụng phân bón hữu cơ của ông Nguyễn Văn Tuyên, Giám đốc Hợp tác xã Gà đồi Tân Phú.
Kết quả phân tích của Viện Nghiên cứu và Ứng dụng Khoa học Công nghệ Việt Nam, giúp ông chuẩn hóa công thức, là cơ sở để ông đăng ký thương hiệu và sản xuất quy mô lớn. Trước mắt, ông tập trung cung ứng chế phẩm cho nông dân địa phương, giúp họ giảm chi phí sản xuất, nâng cao hiệu quả trồng trọt và chăn nuôi, nhất là trong bối cảnh giá gà thịt đang xuống thấp như hiện nay. Về lâu dài, ông mong muốn được cấp chính quyền hỗ trợ kinh phí để xây dựng cơ sở hạ tầng, đăng ký tiêu chuẩn chất lượng.
Bà Đỗ Thị Hường, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Phát triển nông thôn bền vững thuộc Viện Quản lý đất đai và Phát triển nông thôn (Trường Đại học Lâm nghiệp) nhận xét: Nuôi gà dưới tán rừng keo, nuôi giun quế và sáng kiến tạo ra chế phẩm vi sinh bản địa của ông Tuyên là điển hình về mô hình nông lâm kết hợp, nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn, ứng phó với biến đổi khí hậu. Với sự nỗ lực không ngừng, ông Tuyên đang góp phần thúc đẩy nền nông nghiệp hữu cơ bền vững, đem lại lợi ích thiết thực cho bà con nông dân. Do vậy, mô hình này rất cần được địa phương nghiên cứu hỗ trợ, để ứng dụng rộng rãi trong thời gian tới.
Lưu Phượng
Nguồn Thái Nguyên : https://baothainguyen.vn/kinh-te/nong-nghiep/202503/nong-dan-bat-vi-sinh-lam-chia-khoa-vang-cho-nong-nghiep-8771a69/