Nông dân làm giàu từ sản vật đồng bằng

Nông dân làm giàu từ sản vật đồng bằng
11 giờ trướcBài gốc
Từ sản vật dân dã đến ngành hàng tỷ đô
ĐBSCL là "thủ phủ” nuôi cá tra của cả nước, với khoảng 5.700ha mặt nước, sản lượng hơn 1,4 triệu tấn mỗi năm. Vùng đất này hiện có hàng trăm doanh nghiệp chế biến, hàng chục ngàn hộ dân và hơn nửa triệu lao động tham gia chuỗi giá trị, góp phần đưa kim ngạch xuất khẩu cá tra đạt trên 2 tỷ USD/năm, chiếm hơn 90% sản lượng toàn cầu.
Từ những ao hầm ven sông đến các vùng nuôi công nghiệp hiện đại, nghề nuôi cá tra đã tạo dựng thương hiệu mạnh mẽ cho nông nghiệp Việt Nam. Theo ông Dương Nghĩa Quốc (Chủ tịch Hiệp hội Cá tra Việt Nam), 2 con sông lớn Tiền và Hậu là "mạch nguồn" nuôi dưỡng ngành hàng tỷ đô này. Ông Quốc nói: "Đó là ưu đãi của tạo hóa, là nền tảng cho sự phát triển vượt bậc của cá tra Việt Nam".
Tận dụng nguồn nước 2 con sông Tiền, sông Hậu để tăng nuôi cá tra xuất khẩu bằng hình thức nuôi bè những năm đầu thập niên 90
Các địa phương như An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ là điểm sáng phát triển vùng nuôi tập trung, gắn kết nông dân - hợp tác xã - doanh nghiệp, hình thành chuỗi sản xuất khép kín: giống - nuôi - chế biến - xuất khẩu. Tuy nhiên, theo ông Lê Trung Dũng (Phó Chủ tịch Hiệp hội Thủy sản An Giang): "Chuỗi liên kết hiện vẫn còn lỏng lẻo, nhất là khâu giống và thu mua, khiến người nuôi dễ bị động khi giá cả biến động".
Dù đạt nhiều thành tựu, song nghề nuôi cá tra vẫn đối mặt không ít khó khăn như: Giá thức ăn và thuốc thú y tăng cao, trong khi nguồn vốn tín dụng cho người nuôi nhỏ lẻ còn hạn chế. Anh Trần Hoàng Long, thành viên Chi hội cá giống xã Phú Hòa (An Giang) chia sẻ: "Chi phí sản xuất và vốn là hai gánh nặng lớn nhất của ngư dân. Nhiều hộ muốn mở rộng quy mô nhưng thiếu điều kiện cải tạo ao nuôi, còn dịch bệnh vẫn là nỗi lo thường trực".
Bên cạnh áp lực chi phí, ngành cá tra còn chịu tác động mạnh từ thị trường xuất khẩu. Sự phụ thuộc vào các thị trường lớn như Trung Quốc, Mỹ và EU khiến ngành hàng dễ tổn thương khi rào cản kỹ thuật thay đổi. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn và ô nhiễm nguồn nước, yêu cầu phát triển xanh, bền vững càng trở nên cấp thiết.
Những tháng cuối năm 2025, tình hình xuất khẩu tốt, giá cá tra nguyên liệu ở mức 30.000 đồng/kg, ngư dân rất phấn khởi
Tuy vậy, các chuyên gia cho rằng dư địa phát triển vẫn còn rộng. Thị trường thế giới đang hướng đến sản phẩm "xanh", có truy xuất nguồn gốc rõ ràng, đây là cơ hội để cá tra Việt Nam chuyển mình mạnh mẽ hơn, gia tăng giá trị thay vì chỉ dựa vào sản lượng.
Theo ông Doãn Tới (Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Nam Việt), việc đầu tư công nghệ và chuyển đổi mô hình nuôi hiện đại là xu thế tất yếu: "Doanh nghiệp đang ứng dụng hệ thống nước tuần hoàn RAS, chuyển đổi số trong quản lý trại nuôi và chế biến. Nếu tận dụng tối đa phụ phẩm như da, mỡ, xương cá để sản xuất collagen, dầu cá, thức ăn chăn nuôi, giá trị xuất khẩu cá tra có thể vượt xa mức 2 tỷ USD hiện nay".
Hướng đi mới
Trên thực tế, nhiều vùng nuôi tại An Giang, Đồng Tháp đã chuyển hướng sản xuất "xanh" - tuân thủ tiêu chuẩn ASC, GlobalGAP, VietGAP - giúp sản phẩm đáp ứng các thị trường khó tính. Người nuôi cá hiện không chỉ dựa vào kinh nghiệm mà còn ứng dụng công nghệ, quản lý môi trường nước, tự động hóa cho ăn và giám sát dịch bệnh.
Bà Trần Thị Diệu, ngư dân xã Tân Hồng (Đồng Tháp) cho biết: "Trước đây, chúng tôi tận dụng phế phẩm nông nghiệp như cám, tấm, bắp làm thức ăn, giờ đã chuyển sang dùng thức ăn công nghiệp đạt chuẩn, giúp cá lớn nhanh, thịt trắng, ít mỡ. Sản phẩm xuất khẩu được giá, người nuôi yên tâm bám nghề".
Kiểm tra sản phẩm trước khi đóng gói tại Nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu Nam Việt
Để giải bài toán làm giàu từ sản vật đồng bằng, không thể thiếu sự gắn kết giữa "bốn nhà”: Nhà nước - Doanh nghiệp - Nhà khoa học - Người nuôi. Cụ thể, Nhà nước giữ vai trò quy hoạch vùng nuôi, quản lý chất lượng giống và xúc tiến thương mại; Ngân hàng hỗ trợ tín dụng ưu đãi để người dân, hợp tác xã và doanh nghiệp mở rộng mô hình công nghệ cao. Doanh nghiệp đầu tư chế biến sâu, đa dạng sản phẩm giá trị gia tăng như cá viên, cá tẩm bột, snack da cá. Các viện, trường nghiên cứu tiếp tục chọn tạo giống tốt, chuyển giao quy trình nuôi tiết kiệm thức ăn, giảm ô nhiễm.
Về phía người nuôi, việc tuân thủ quy trình sản xuất sạch và liên kết hợp tác xã là yếu tố sống còn để bảo đảm đầu ra ổn định, tránh cảnh "được mùa mất giá”. Mô hình chuỗi khép kín không chỉ giúp giảm chi phí, tăng lợi nhuận mà còn là nền tảng để ngành cá tra phát triển bền vững.
Thời gian qua, thương hiệu "Vietnam Pangasius" được quảng bá mạnh mẽ tại các hội chợ thủy sản quốc tế ở Brussels, Thượng Hải, Tokyo, Boston... Các sản phẩm cá tra xanh, cá tra hữu cơ của Việt Nam đang được người tiêu dùng đánh giá cao. Theo ông Dương Nghĩa Quốc: "Ngành cá tra cần chuyển từ sản xuất theo kinh nghiệm sang sản xuất theo tiêu chuẩn quốc tế, xây dựng thương hiệu quốc gia mạnh mẽ hơn để vươn xa".
Sản phẩm file là mặt hàng chủ lực trong xuất khẩu của ngành hàng cá tra
Câu chuyện con cá tra - từ sản vật bản địa trở thành hàng hóa toàn cầu - là minh chứng sinh động cho hướng đi đúng của ĐBSCL: làm giàu từ sản vật quê hương bằng tri thức, công nghệ và sự liên kết đồng lòng từ các bên tham gia. Khi những "nút thắt" được tháo gỡ, con cá tra không chỉ là biểu tượng của ngành hàng tỷ đô, mà còn là hình ảnh của bản lĩnh, niềm tin và khát vọng vươn lên của người dân vùng hạ lưu sông Mê Kông.
"An Giang xác định việc khai thác tiềm năng, thế mạnh của địa phương phải gắn với đổi mới tư duy sản xuất, nâng cao chất lượng nông sản và gia tăng giá trị sản phẩm chủ lực như cá tra, cây ăn trái và rau màu. Tỉnh sẽ tiếp tục quy hoạch vùng nuôi an toàn sinh học, phát triển chuỗi liên kết khép kín và thúc đẩy công nghiệp chế biến sâu để người dân thật sự làm giàu bền vững từ sản vật của đồng bằng", ông Hồ Văn Mừng (Chủ tịch UBND tỉnh An Giang) chia sẻ.
NHẤT ĐỊNH ĐƯỢC
Nguồn CA TP.HCM : http://congan.com.vn/thi-truong/nong-dan-lam-giau-tu-san-vat-dong-bang_184950.html