Giá cao không đồng nghĩa với lợi thế bền vững
Đến giờ nay có thể nói năm 2025 đánh dấu một bước nhảy về hình ảnh của nông sản Việt Nam. Sau thời gian dài tăng trưởng dựa chủ yếu vào sản lượng, nhiều nhóm hàng đã chứng kiến giá xuất khẩu tăng mạnh, kéo kim ngạch toàn ngành nông, lâm, thủy sản lên mức kỷ lục. Dựa vào Bản tin Nông lâm thủy sản phát hành hàng tháng của Bộ Công Thương thì trong 11 tháng đầu năm nay, xuất khẩu toàn ngành đạt khoảng 64 tỉ đô la, tăng 12,6% so với cùng kỳ và vượt cả năm ngoái. Riêng nhóm nông sản đạt mức tăng khoảng 15%, chiếm phần lớn mức tăng chung.
Ảnh: TL
Cà phê là điểm sáng nổi bật nhất. Với khoảng 1,4 triệu tấn xuất khẩu trong 11 tháng, kim ngạch đạt gần 8 tỉ đô la, tăng hơn 60% về kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái, cà phê Việt ghi nhận mức giá trị cao nhất từ trước đến nay và thực tế trên thị trường, giá cà phê nhân xê dịch quanh mức 100.000 đồng/kg . Đáng chú ý, mức tăng này chủ yếu đến từ giá xuất khẩu bình quân tăng mạnh, trong khi sản lượng chỉ tăng nhẹ.
Hạt tiêu cũng đi theo quỹ đạo tương tự khi kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 1,44 tỉ đô la với hơn 213.000 tấn, vượt kỷ lục cũ dù sản lượng không tăng tương ứng. Giá xuất khẩu bình quân cải thiện rõ rệt trong bối cảnh nguồn cung toàn cầu thắt chặt, nhu cầu từ các thị trường Âu, Mỹ duy trì ở mức cao.
Các nhóm hàng khác như rau quả và hạt điều tiếp tục góp thêm gam màu sáng. Trong 11 tháng năm 2025, xuất khẩu rau quả đạt gần 7,9 tỉ đô la với trọng tâm là trái sầu riêng; hạt điều khoảng 4,76 tỉ đô la, đều tăng xấp xỉ 20% so với cùng kỳ. Một lần nữa, giá xuất khẩu và cơ cấu thị trường đóng vai trò lớn hơn khối lượng.
Những con số này cho thấy tăng trưởng hiện nay phần lớn đến từ giá trên mỗi đơn vị sản phẩm, hơn là mở rộng quy mô sản xuất. Ở góc nhìn tích cực, giá cao tạo dư địa cải thiện thu nhập cho nhà nông, giúp cả chuỗi ngành hàng, đặc biệt là doanh nghiệp, có dòng tiền tốt hơn để tái đầu tư. Nhưng cũng chính đều nay thì rủi ro chu kỳ bắt đầu lộ diện.
Cái bẫy “giá che lấp yếu tố cạnh tranh” và rủi ro chu kỳ
Nếu chỉ nhìn vào kim ngạch, bức tranh có thể gây cảm giác lạc quan quá mức trên báo chí và trong báo cáo của các hiệp hội ngành hàng. Nhưng, điiểm nghẽn cố hữu của nông sản Việt vẫn còn nguyên: giá trị gia tăng thấp, phụ thuộc mạnh vào giá thế giới, và vị thế yếu ở các phân khúc cao cấp, nhiều mặt hàng phụ thuộc vào một vài thị trường lớn. Giá tăng có thể che lấp những hạn chế này trong ngắn hạn, nhưng khi chu kỳ đảo chiều, các nhược điểm sẽ bộc lộ rất nhanh và thực tế hơn hai chục năm qua của thị trường nông sản ít nhiều chứng minh điều này.
Rủi ro đầu tiên là sự lệ thuộc vào biến động cung - cầu toàn cầu. Phần lớn nông sản vẫn xuất khẩu ở dạng nguyên liệu thô hoặc sơ chế. Khi các nước sản xuất nông sản lớn điều chỉnh sản lượng, như Brazil tăng cung cà phê hay Ấn Độ mở rộng diện tích hồ tiêu, giá thế giới khó duy trì ở mức cao. Khi đó, lợi thế hiện tại sẽ suy giảm nhanh.
Ảnh: TL
Rủi ro thứ hai là cấu trúc thị trường chưa thực sự bền vững. Dù kim ngạch tăng mạnh, thị phần của nhiều mặt hàng tại các thị trường trọng yếu như EU và Mỹ không tăng tương xứng. Một số sản phẩm còn ghi nhận xu hướng giảm về lượng tại thị trường truyền thống, trong khi tăng đột biến ở các thị trường mới nổi. Với hạt tiêu, Mỹ vẫn là thị trường lớn nhất, nhưng lượng xuất khẩu lại giảm mạnh, bù lại là mức tăng rất cao ở Ai Cập, UAE hay Senegal. Đây là tín hiệu của sự dịch chuyển thị trường, nhưng cũng hàm chứa rủi ro về tính ổn định và tiêu chuẩn.
Sự phân hóa còn thể hiện rõ ở gạo. Dù vẫn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực, hạt gạo trong năm 2025 có xu hướng giảm cả về khối lượng lẫn giá trị. Lũy kế 11 tháng, xuất khẩu khoảng 7,5 triệu tấn nhưng kim ngạch giảm gần 28% so với cùng kỳ. Áp lực cạnh tranh gay gắt và sự suy giảm lợi thế giá cho thấy không phải mọi nông sản đều hưởng lợi từ chu kỳ hiện tại.
Chu kỳ giá cao còn tạo ra một cái bẫy tâm lý. Khi giá tốt, nhiều hộ nông dân, trang trại và doanh nghiệp nhỏ mở rộng diện tích, tăng thu mua nguyên liệu, nhưng thiếu công cụ quản trị rủi ro. Khi giá giảm, tồn kho tăng, dòng tiền bị bóp nghẹt. Xảy ra tăng diện tích bất thường, phá sản, vỡ nợ như trong ngành hàng cà phê thường hay bắt gặp.
Thoát bẫy hay tiếp tục chạy theo giá?
Rõ ràng, nếu chỉ chạy theo giá, nông sản Việt sẽ tiếp tục mắc kẹt trong vòng lặp quen thuộc, được mùa mất giá và ngược lại, tất nhiên, ngày nay toàn cầu hóa nên không chỉ là được mùa hay mất mùa trong nước mà của các quốc gia khác có cùng ngành hàng.
Các chuyên gia ngành nông nghiệp trong nhiều hội thảo, tọa đàm gần đây cho rằng, khi giá đang ở mức tốt như hiện hay, doanh nghiệp có điều kiện tích lũy vốn và nên chấp nhận đầu tư dài hạn, thay vì chỉ tối ưu lợi nhuận ngắn hạn. đòi hỏi ưu tiên cho chế biến sâu, xây dựng thương hiệu và tiêu chuẩn chất lượng cao cho các mặt hàng chủ lực.
Chu kỳ giá cao đang mang lại cơ hội tăng trưởng rõ rệt cho nông sản Việt nhưng, bài toán chính sách không nằm ở con số xuất khẩu của năm nay, mà ở việc ngành nông sản sẽ đứng ở đâu khi chu kỳ giá cao khép lại.
Thứ hai, cần phát triển các công cụ quản trị rủi ro giá và thị trường cho sản xuất nông nghiệp. Bảo hiểm giá, hợp đồng tương lai, hoặc các cơ chế chia sẻ rủi ro có thể giúp nông dân và doanh nghiệp giảm phụ thuộc vào biến động bất ngờ, đặc biệt là khâu dự báo giá nông sản dựa vào trí tuệ nhân tạo. Trong giai đoạn giá cao, vai trò của Nhà nước nên tập trung vào thiết kế khung phòng vệ rủi ro, thay vì các biện pháp hỗ trợ mang tính tình thế.
Thứ ba, đa dạng hóa thị trường phải đi kèm nâng chuẩn. Mở rộng sang thị trường mới là cần thiết, nhưng không thể tách rời yêu cầu về truy xuất nguồn gốc, chứng nhận bền vững và tuân thủ tiêu chuẩn môi trường. Đây là điều kiện để giữ thị phần khi giá không còn là lợi thế chính.
Cuối cùng, liên kết giữa nông dân, doanh nghiệp và hệ thống nghiên cứu - đào tạo cần được coi là nền tảng. Chu kỳ giá cao là thời điểm thuận lợi để thúc đẩy chuyển đổi số trong sản xuất, cải thiện logistics và nâng chất lượng đầu vào. Nếu bỏ lỡ giai đoạn này, chi phí nâng cấp trong chu kỳ sau sẽ lớn hơn nhiều.
Hồng Văn